31 thg 8, 2013

Chữ Phúc

ST

Mạn bàn về chữ “Phúc”

Trong quan niệm cổ truyền của gia đình người Việt, chữ “Phúc” có vị trí quan trọng hàng đầu. "Nhà có phúc" là ước vọng, là niềm vinh dự của người Việt Nam. Vì lẽ đó, cứ Tết đến xuân về, người ta thường viết chữ “phúc” trên một tờ giấy đỏ vuông dán ngoài cửa và xem như là một lá bùa chúc tụng điều may mắn trong năm.

Uớc vọng đầu năm của hầu hết người dân Việt không thể thiếu chữ "Phúc". Cụ Nguyễn Công Trứ có đôi câu đối vừa hóm hỉnh nhưng không kém phần tinh tế và sâu sắc của hương vị ngày xuân: Chiều ba mươi, nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng "Bần" ra cửa/ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông "Phúc" vào nhà. Lại nữa, có một câu chuyện trong dân gian kể rằng: đời vua Gia Long, có người lập nhiều công trạng, nhà vua hỏi muốn được thưởng gì thì người ấy thưa rằng: "Hạ thần chỉ xin được một chữ "Phúc" mà thôi".
Vua cười đáp rằng: "Tiền bạc, chức tước thì ta có thể ban, chứ Phúc thì chỉ có trời ban mà thôi, cả dòng họ ta chỉ nhờ có chữ Phúc mà vinh hiển nhiều đời". Thật vậy, dòng họ nhà Nguyễn đã lót chữ Phúc vào tên của mình (vua Gia Long là Nguyễn Phúc Ánh). Trên khắp nước Việt Nam, nhiều địa danh đã chọn chữ "Phúc": tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phúc Thọ (Hà Nội)...
Chữ "Phúc" là từ Hán Việt, người miền Nam đọc là "phước". Chữ "Phúc" trong giáp cốt văn là hình tượng hai bàn tay bưng hũ rượu đứng trước bàn thờ. Như vậy, chữ "Phúc" vốn được xem là điều tốt lành do cầu cúng mà có được.
Theo đó, "Phúc" có nghĩa là "thuận lợi", "đồng thuận". Thuận có nghĩa là từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài đều thông suốt, không có gì trở ngại. Trên thuận trời đất, dưới thuận vua tôi, dưới nữa thuận cha mẹ, con cái. Đời sống tinh thần bên trong và đời sống vật chất bên ngoài đều thuận lợi không có gì trắc trở, như vậy gọi là thuận, là Phúc. Một điều thật thú vị là câu chúc Tết của người phương Tây thường đề cập đến hạnh Phúc, sức khỏe và thành đạt, đứng ở góc độ nào đó có sự tương đồng như Phúc, Lộc, Thọ mà ở phương Đông người ta tâm niệm.

Cả Âu lẫn Á đều đặt "Phúc" lên vị trí hàng đầu, nhưng nếu tìm hiểu kỹ thêm một chút mới thấy chữ "Phúc" của phương Đông rất rộng lớn, mênh mông và tinh tế. Người Trung Hoa chơi chữ bằng cách vẽ hai con dơi đâu cánh lại, ngụ ý là trùng phúc, họ còn vẽ thêm một lúc năm con dơi biểu tượng cho ngũ phúc (ngũ phúc lâm môn) mà sách Hồng Phạm viết: "Ngũ phúc, nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang minh, tứ viết Du hảo đức, ngũ viết Khảo chung mệnh" (Năm phúc: sống thọ, giàu có, bình an, đức tốt, chết vào tuổi già).
Theo Từ điển Khai Trí Tiến Đức thì "Phúc" là điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong tâm thức của người Việt, từ lâu đã quan niệm phúc bao giờ cũng đi đôi với đức. Thuật ngữ "Phúc đức" luôn gắn liền nhau. Chính điều này đã làm sâu sắc thêm triết lý nhân duyên của nhà Phật và đem lại màu sắc tích cực cho hai chữ họa phúc (Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai). Phúc dày hay mỏng cũng do chính con người can dự quyết định.
Chữ Phúc chính là một ân huệ mà con người tự tạo ra qua những hành động tốt của mình. Nó là những hạt giống tốt được tay người tự gieo trên những mảnh đất mà ta thường gọi là phúc điền (ruộng phước). Do quan niệm họa phúc ở đời là sợi dây gieo nhân gặt quả, nên người Việt Nam chú trọng đến việc "làm ơn, làm phước".
Hơn thế nữa, mỗi hành động, việc làm của chúng ta không những ảnh hưởng đến bản thân ta mà còn lưu lại kết quả cho thế hệ sau. Nhà có phúc là nhà có được cuộc sống bình yên thanh thản, đặc biệt là có hậu vận tốt. Muốn được đức phải có phúc và ngược lại đức sẽ đem lại phúc, đó là quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,... Ví như đức của Nho giáo là ngũ thường, đức của Phật giáo là ngũ giới (năm điều cấm), đức của Kitô giáo là 10 điều răn của Chúa... Dù văn chương chữ nghĩa có khác nhau, nhưng chung quy về đức ở mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có chung quan niệm nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi người.
Ngày nay, khi kinh tế có chiều khởi sắc, dường như người ta ít đặt, hay lãng quên chữ "Phúc" trong mối quan hệ với "đức" hay "thiện" (phúc đức, phúc thiện) mà thường đặt "Phúc" trong mối quan hệ với chữ "đạt" (thành đạt) hay "lợi" (phúc đạt, phúc lợi).
Ngạn ngữ Lào có câu: "Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo đức". Hi vọng rằng dù lịch sử có thay đổi như thế nào đi nữa thì quan niệm về chữ "Phúc" của dân tộc, của mỗi gia đình, của mỗi người chúng ta sẽ mãi mãi là "mã di truyền" tốt đẹp trong đời sống văn hóa người Việt.

Chữ Phúc
Lưu Nhơn Nghĩa

Được bạn hiền Phạm quốc Bảo tặng cuốn sách " Dấu vết Văn hóa Mỹ ", tập 2 , trang 84-86, bài " Chữ Phúc treo ngược ". Xin kể lại sơ lược câu chuyện trong quán Tàu . Ba người đàn ông Việt, tuổi trên 50 (tính từ 1995 ) ngồi ăn bàn chuyện chữ nghiã.

" Này, nhìn thử ba chữ treo hàng dọc trên tường kia...Đúng đấy ,thấy gì không ?

Ba chữ Tàu treo một hàng dọc như thế, loại dốt như tôi cũng đoán được là Phúc Lộc Thọ chứ gì? Phải không anh Tân? Sao lại cười, tôi đoán sai à?

Cậu đoán đúng, tôi cười vì anh Việt đã nhìn ra chữ " Phúc lộn " ngược.

Lộn ngược ?...Để tôi xem có còn nhớ chữ Tàu nữa không nha anh Tân. Chữ Phúc viết theo Hán văn là từ trái sang phải và từ trên xuống dưới thì gồm bộ " Kỳ "chỉ về thần thánh, trên cùng là chữ nhứt là một, giữa chữ khẩu là miệng, dưới là chữ điền là ruộng. Phúc đạy là Hạnh Phúc, chứ không phải chữ Phúc trong nghiã bạn tâm phúc.

   -Phúc đó là bụng, gồm có bộ " nhục " ( thịt ) và chữ " phục " là trở về. Bộ " nhục " thì khỏi nói, phải nhớ. Còn chữ " phục " thì trên là chữ " nhân "( người ), giữa chữ " nhựt " ( mặt trời ) và dưới là chữ " chỉ " (đi đứng ). Để dễ nhớ, người ta thường diễn tả chữ " phục " là con người ở thôn quê khi mặt trời lên thì ra đồng làm việc khi mặt trời lặn thì đi về nhà. Đúng không anh Tân ?

Anh dân kinh tế mà chữ Hán tài đấy.

   -Thế chữ Phúc tiệm nầy chiết tự ra sao để dễ nhớ, anh biết chứ ?

Ngoài bộ " kỳ " ý nói do thiêng liêng hoặc nhờ may mắn mà có. Chữ Phúc tính từ dưới lên trên có nghiã la ruộng mênh mông. Ruộng ( điền ) nhìn xa chỉ thấy 4 cạnh thôi, ( khẩu ), xa nữa chỉ thấy một cạnh ( nhất ) và xa nữa thì không còn bờ giới hạn.

Hay thật, chữ Phúc đây họ treo ngược thế kia, anh thấy sao ?

Có thể họ " vô tình đóng đinh vào tường rồi nó tự lộn ngược lúc nào không biết để sửa lại. Nhưng đặc biệt giới buôn bán người Trung Hoa cũng có khi cố ý treo ngược chữ Phúc là để tiền bạc vào trong tay họ mà không trở ra được nữa, họ tin tưởng như vậy "

Cái ý ấy lạ và tuyệt thât.....

Hai anh giỏi chữ nghiã, luận nghe sướng tai quá.! Riêng tôi dốt và đơn giản thì cho rằng Phúc là Phúc Đức hay Phúc là cái bụng khác nhau ở chữ với nghiã gì đó là chuyện khác, còn hai chữ Phúc liên quan chặt chẻ với nhau cho con người trước hết cái đã. Phúc đức hay tiền bạc, lý tưởng hay âm mưu gì đó không cần biết, đầu tiên phải cho nó no cái bụng trước tiên, còn mọi sự mọi việc tính sau.

Đó là câu chuyện của ba ông khách quán mì. Để học cho dễ nhớ thì đúng hơn, ông giảng chữ " phúc " ( bụng ) cũng trôi, nhưng ông giảng chữ " phục " gồm chữ nhục ( thịt ) thì đúng, còn chữ bên phải không có nghiã, chỉ mượn âm ( hài thanh, một phần của chữ " phục ", trở lại, chữ " phục ", trở lại gồm bộ " sách ", bên phải trên là chữ " nhơn ", người, chữ " nhựt ", mặt trời, cuối cùng là chữ " truy ", đến sau, chứ không phải nghĩa là " đi đứng ' như ông khách nói. Điều nầy không quan trọng, xưa, học trò chữ Nho phải tìm cách chiết tự để dễ nhớ, vì chữ Nho không thể đáng vần. Chữ Đức chiết tự thành " chèo bẻo vắt vẻo cành tre, Thập trên, tứ dưới, nhứt đè chữ tâm. Chữ Hiếu chiết tự thành " Đất nầy là đất hồ ao ( chữ thổ ), Ai cắm cây sào mà lại cấm xiên, Con ai mà đứng không yên, Đứng thì không vững dựa nghiêng cây sào.

Ông khách giảng chữ " phúc " cũng trôi, nhưng người Tàu chiết tự, giảng khác. Chữ " phúc " gồm bộ " kỳ "( thiêng liêng ), kế bên là chữ " nhứt" ( một ), bên trên chữ "khẩu" ( miệng ), chót là chữ " điền " ( ruộng ). Người được thần thánh phù trì, lại chỉ có một miệng ăn ( ít nhân khẩu ), có ruộng, vậy là có phúc, hay phước. Hai chữ phúc ( bụng ) và " phúc " ( phúc đức ) giảng ra đều hợp lý.

May quá, gỏ tới đây, thằng con tôi dẫn về cô bạn gái gốc Đài Loan, biết chữ Hoa. Cô diễn đạt theo tinh thần Hoa ngữ về chữ " phúc " như sau.

Chữ " phúc ", bên là bộ " kỳ ", cúng bái, cầu xin. Cầu xin cho gia đình có ruộng . Chữ " nhứt khẩu tử " nghiã là gia đình," nhứt khẩu " là gia đình, chứ không phải là một miệng ăn. Cầu xin cho gia đình có ruộng, no đủ. Lại một lối giải thích khác.

Còn chữ " phúc " treo ngược, ông khách cho rằng chủ tiệm đóng đinh vào tường rồi nó tự lộn ngược quên không sửa lại. Ông còn giảng là người Tàu buôn bán có khi cố ý treo ngược chữ " phúc " để tiền bạc không trở ra được nữa...Đây là phần ông chế ra thêm thắt. Xong rồi ba ông khen nhau hay tuyệt, độc giả Việt Nam đọc sao hiểu vậy .

Dân Quảng Châu cố ý treo ngược chữ " phúc ", theo thổ ngữ Quảng Châu, âm " đảo " ( đảo ngược ) gần âm " đáo " ( đến ), họ treo ngược chữ " phúc " , đọc thành " phúc đảo "," phúc đảo " gần âm " phúc đáo " nghiã là " phúc tới ", cầu cho phúc tới .Người sử dụng thổ ngữ Quảng Châu, thủ đô tỉnh Quảng Đông, tiếng nói thông dụng Chợ Lớn, mới dùng chữ Phúc đảo ngược thôi.

Luôn tiện nói tào lao cuối năm. Dân Quảng Châu rất sợ số 4, âm " tứ " trong thổ ngữ Quảng Châu gần với âm " tử " ( chết ), nhiều tiệm bán điểm tâm, không có bàn thứ 14, âm thập tử, bàn 13 tới bàn 15. Họ ưa số 8, gần âm " phát ", phát đạt, họ hay mua bảng số xe 18, 88..

.Dân gốc Triều Châu, một Phủ trong tỉnh Quảng Đông chọn số 4 là số hên," tứ ", số 4 trong thổ âm Triều Châu gần với âm chữ " thế ", đời . 44 đọc theo thổ âm Quảng Châu là " tử tử ", chết chết, trong thổ âm Triều Châu, " tứ tứ " đọc thành đời đời . Chàng rể mang tiền " xởi miềng chí ", tiền rửa mặt hay tiền rửa đít ( xin lổi, người ta dịch như vậy ) cho ông già vợ ngày đám cưới tùy, miễn là số 4, như $44 hay $444, $4444....Ông già vợ biết điều, lấy $4 tượng trưng, trả lại phần kia.

Dân Trung Hoa thích số 9, cửu , đồng âm chữ cửu, mãi mãi. Dân Nhựt sợ số 9, roku, khổ lực, dân Âu Mỹ sợ số 13 .

Luôn tiện nói cho hết. Bài thơ " Rắn đầu biếng học " của Lê quí Đôn, trong Quốc văn Giáo khoa thư, âm ra chữ Quốc ngữ có câu, " Từ nay Châu Lỗ xin siêng học. Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia". Đúng ra là Trâu Lỗ. Nước Trâu thuộc Sơn Đông là quê Mạnh Tử, nước Lỗ quê Đức Khổng Tử. Người Bắc soạn, âm " tr " thành " ch", " Trâu " thành " " Châu ", cũng có người họ Trâu, khác với họ Châu.

Cũng như trường hợp " tiếng bom Sa Điện " của Phạm Hồng Thái, ngày nay, tìm đến nơi mới biết địa danh là Sa Diện, lổi ấn loát, in sai rồi để nguyên, đời sau cứ tiếp tục đọc, lấy đó làm tài liệu viết tiếp.

Cuối năm nói chuyện trà dư tữu hậu. Ông Phạm quốc Bảo ơi, làm ơn tra tự điển hay hỏi người chủ tiệm về chữ " Phúc " treo ngược.  

27 thg 8, 2013

Kinh nghiệm dùng lá lốt chữa khỏi bệnh mồ hôi tay chân

ST

Sau thời gian dài kiên trì dùng lá lốt, tay chân tôi giảm mồ hôi hẳn. Cảm ơn thứ lá cây thơm thảo của đất trời đã giúp tôi lấy lại được sự tự tin.


Cách chữa bệnh)- Sau thời gian dài kiên trì dùng lá lốt, tay chân tôi giảm mồ hôi hẳn. Cảm ơn thứ lá cây thơm thảo của đất trời đã giúp tôi lấy lại được sự tự tin.

Tôi rất thông cảm với những ai bị mắc bệnh đổ nhiều mồ hôi, nhất là mồ hôi tay, chân. Bởi lẽ, chính tôi cũng là nạn nhân của căn bệnh đáng ghét này. Xưa lúc đi học, mùa đông thì đỡ, mồ hôi ít ra. Chứ mùa hè thì thôi rồi, lúc nào tôi cũng phải chuẩn bị khăn mùi soa mang đi học, để thấm mồ hôi ở tay, còn tất chân thì ướt sũng.
Việc đi học còn đỡ, mỗi khi phải thuyết trình, hay phải cầm tay bạn gái, thì đúng là nỗi kinh hoàng, không để đâu hết xấu hổ.
Vì vậy mà tôi mày mò tìm hiểu các cách để trị bệnh này. Trước tiên là tìm hiểu nguyên nhân: 

Nói về nguyên nhân gây ra chứng chảy mồ hôi ở tay, GS.TS Dương Trọng Hiếu cho biết: “Nói theo cách nói của y học cổ truyền, người ta gọi là phế chủ bì mao. Khi mà có bệnh ở cơ quan hô hấp thì rất dễ ảnh hưởng đến việc tiết mồ hôi ở toàn thân cũng như là ở lòng bàn tay, bàn chân. Nguyên nhân thứ hai là do thiếu hụt một số chất, trong đó có canxi trong máu. Nguyên nhân thứ ba, có thể là do bị bệnh lý ở tim mạch”.
ki
Bàn tay khô ráo là ước mơ của nhiều người. Ảnh minh họa


Điều trị chứng ra mồ hôi tay, chân không quá khó, nhưng nếu để quá lâu, sẽ phải phẫu thuật tuyến mồ hôi hay tiêm botox vào bàn tay, bàn chân giúp điều tiết mồ hôi hợp lý. Theo y học cổ truyền, có một cách điều trị chứng ra mồ hôi tay, chân đơn giản mà hiệu quả đó là dùng lá lốt.
Lý giải cho điều này, GS.TS Dương Trọng Hiếu nói: “Ra mồ hôi này người ta gọi là thấp. Nước lá lốt thì có tác dụng là giúp làm bớt cái thấp ở cơ thể”.
Để chữa chứng ra mồ hôi tay bằng lá lốt, chúng ta có thể làm theo các bước sau:
- Bước 1: Rửa sạch và cắt nhỏ 30 gam lá lốt tươi.
- Bước 2: Cho lá lốt vừa cắt vào nồi cùng 1 lít nước sạch.
- Bước 3: Đun sôi, cho thêm ít muối vào nồi.
- Bước 4: Để nước ấm sau đó ngâm tay và ngâm chân vào.
Lưu ý là chúng ta nên làm thường xuyên mỗi ngày một lần trước khi đi ngủ. Mỗi lần ngâm từ 10 đến 15 phút.
Ngoài cách ngâm nước lá lốt, ta có thể sao vàng lá lốt, sắc lấy nước uống hằng ngày để điều trị chứng ra mồ hôi tay cũng rất hiệu quả. Ngoài ra, nên ăn uống và nghỉ ngơi đúng giờ giấc, bởi vì sinh hoạt bất thường, thiếu ngủ… cũng là nguyên nhân gây nên chứng ra mồ hôi tay, chân.


Nhờ bài thuốc dân gian trên mà tôi đã dần dần từng bước hạn chế được mồ hôi, đến giờ chưa hết hẳn nhưng cũng đã giảm được 80% so với xưa và hy vọng sẽ còn giảm được nữa.

Mong rằng kinh nghiệm dân gian của tôi có thể giúp ích cho các bạn nha!
  • Minh Hoàng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
Một số kinh nghiệm dân gian:


1. Lát Lốt
Có rất nhiều cách sử dụng lát lốt để trị chứng đổ mồ hôi tay, chân. Cách thứ nhất dùng thân, lá và rễ lá lốt rang vàng, hạ thổ, sắc uống trong 7 ngày liền, nghỉ 4 - 5 ngày sau đó tiếp tục sử dụng bài thuốc thêm 1 tuần. Cách thứ hai, nấu nước lá lốt, cho thêm chút muối tinh, ngâm tay trong nước ấm, áp dụng ít nhất một lần trong ngày. Cách thứ 3, chế biến lá lốt thành những món ăn ngon mà lại có tác dụng như những vị thuốc như chả lá lốt, thịt rang lá lốt, đảm bảo là rất thơm ngon, vừa miệng mà lại có tác dụng chữa bệnh.
ki
Lá lốt, chè xanh, ngải cứu... đều chữa bệnh ra mồ hôi tay hiệu quả! Ảnh minh họa
2. Chè xanh
Có một liệu pháp giúp làn da khỏe đẹp mà ít bạn trẻ để ý đó là tắm bằng nước lá chè xanh. Tắm nước chè xanh sẽ giúp bạn sảng khoái hơn sau một ngày học tập, làm việc mệt mỏi. Nước trà xanh còn ấm dùng để ngâm tay không những giúp bạn có một làn da tay mịn màng mà còn hạn chế mồ hôi chân, tay tiết ra nữa đấy. Giống như lá lốt, trà xanh không khó kiếm, nếu đi chợ sớm để chọn được những bó trà xanh tươi với giá không quá đắt. Không chỉ dùng chữa bệnh mà nếu hãm trà xanh để uống, bạn sẽ dễ giảm cân hơn và cơ thể cũng thanh lọc, hỗ trợ việc "xử lý"" chứng đổ mồ hôi tay, chân từ bên trong. Nếu không có trà xanh thì trà túi hoặc trà mạn là một thay thế không tồi.
3. Ngải cứu
Ngải cứu tác dụng chữa các chứng bệnh về tiêu hóa, thần kinh, bệnh ngoài da và những rắc rối về "nguyệt san", ngải cứu còn có tác dụng trong chữa trị chứng đổ mồ hôi chân tay. Vào mùa lạnh, bạn cho cây ngải cứu vào bát, đốt rồi hơ tay, chân vào hơi nóng bốc lên. Tinh dầu ngải cứu sẽ có tác dụng làm ấm đôi bàn tay, chân của bạn, hạn chế tình trạng hư hàn - nguyên nhân chính gây chứng đổ mồ hôi tay chân.
4. Lá dâu tằm
Những lá dâu tằm tươi xanh mơn mởn không chỉ dành làm thức ăn cho tằm nhả tơ mà còn có thể đun sôi làm nước uống trị đổ mồ hôi tay, chân nữa đấy. Có thể kết hợp thêm với lá lốt, hạt sen, đường kính để thành một loại thức uống dễ chịu. Không chỉ lá, cành cây dâu kết hợp với cỏ xước, cây mắc cỡ sắc lên uống cũng có tác dụng trong điều trị đổ mồ hôi tay, chân.
5. Muối
Dùng muối hạt hòa tan vào nước ấm ngâm ngập bàn tay và bàn chân vào nước ấm. Ngoài ra, còn hai cách khác là rang muối trên chảo nóng rồi hơ, xông chân tay hay gói muối hạt vào một tấm vải sạch rồi đem chờm vào chân tay. Ba cách này đều có thể giúp bạn trị dần chứng đổ mồ hôi chân, tay đó.
Trên đây là 5 liệu pháp tự nhiên khả dĩ có thể giúp chúng ta vĩnh biệt chứng ra mồ hôi tay chân. Tùy điều kiện và hoàn cảnh, cả nhà chọn cho mình cách phù hợp nhé.
 

Trường Sinh học - Phương pháp chữa bệnh không mất tiền




          Một trong những phương pháp chữa bệnh hiệu quả không tốn tiền mua thuốc là Trường Sinh học. Đây là “bài thuốc” chữa bệnh bằng ứng dụng Trường Năng lượng Sinh học của con người, được thu nạp từ vũ trụ, thông qua điều khiển của các Luân xa (tức là điều khiển các huyệt đạo quan trọng trong cơ thể) làm cân bằng thể chất tâm lý, giúp cơ thể có nhiều năng lượng, khỏe lên, lấn át bệnh tật.
 
          Tập đơn giản, hiệu quả cao.
          Trước khi tôi đi chữa bệnh bằng phương pháp Trường Sinh học, ông Trần Quý, chủ nhà hàng trung tâm tiệc cưới Đông Xuyên, Phường Rạch Dừa, Thành phố Vũng Tàu căn dặn: “Chú đi học chữa bệnh phải có niềm tin. Đây là bài thuốc chữa bệnh bằng thu nạp năng lượng từ vũ trụ. Thông qua tác động và suy nghĩ để điều khiển các huyệt đạo làm cho con người cân bằng sinh thái, thông kinh, hoạt huyết, năng lực dồi dào, đẩy lùi bệnh tật”. Tôi vui vẻ đi học với ý nghĩ: “Có bệnh thì vái tứ phương”.
          Tôi đến Tịnh xá Pháp Hải ở Phường 6, Thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) để học. Buổi trưa, ngôi chùa yên tịnh vắng vẻ. Cái nắng như thiêu như đốt cũng không làm chùn bước những ông già bà cả, thanh niên, phụ nữ về đây. Ông Nguyễn Văn Nhân, cán bộ hưu trí ghi chép tên những người vào đăng ký học cho biết: “Đây là khóa học thứ 112 cho người bệnh đến học 6 ngày bằng phương pháp thu nạp năng lượng mà không phải đóng bất cứ chi phí nào”.
 
                        Hướng dẫn học viên vị trí của Luân xa.- Ảnh: Nhật Minh.

          Thời gian học thường bắt đầu vào 12 giờ trưa thứ 2 hàng tuần và kết thúc vào trưa thứ 7 tuần đó. Ông Bảy là người hướng dẫn cho người bệnh về lý thuyết và thực hành. Theo ông Bảy, Trường Sinh học là phương pháp tự trị bệnh bằng thu nạp năng lượng từ vũ trụ vào cơ thể con người thông qua huyệt đạo. Sau khi khai mở Luân xa, người bệnh bắt đầu tập luyện và có năng lượng rồi thì dùng ý chí (suy nghĩ) của mình để điều khiển vào huyệt đạo (Luân xa). Các huyệt đạo sẽ bắt được tín hiệu theo hệ thống năng lượng sinh học để điều khiển khí huyết, cân bằng tâm sinh lý, thông kinh, tinh thần an lạc. Khi chữa, người bệnh ngồi ở tư thế thiền, dùng trí của mình nghĩ về Luân xa (mỗi Luân xa quy định cho một loại bệnh). Sau 6 buổi học, người bệnh về nhà tự chữa, mỗi lần chữa bệnh ít nhất ngồi 30 phút. Các bệnh tật sẽ giảm dần và hết do năng lượng vũ trụ được thu nạp đầy đủ và điều tiết cân bằng cơ thể.
          Theo hướng dẫn của ông Bảy, mỗi người có 7 Luân xa quan trọng. Luân xa số 7 ở giữa đỉnh đầu trị bệnh thần kinh, não; Luân xa số 6 ở giữa trán trị bệnh thần kinh ngoại biên, thần kinh tọa, đau nhức cơ thể, viêm đa khớp; Luân xa số 5 ở dưới đốt xương sống gồ lên đầu tiên sau gáy, trị bệnh về da, dị ứng, các bệnh về khí như phổi, hô hấp; Luân xa số 4 ở điểm giao nhau của đường thẳng dọc đốt xương sống và đường thẳng kẻ từ đầu ngực của người đàn ông vòng qua, trị bệnh tim mạch, huyết áp cao, mỡ máu; Luân xa số 3 ở đốt sống sau giữa thắt lưng, trị bệnh dạ dày, viêm gan, ruột, lá lách, tụy; Luân xa số 2 ở xương cụt chữa bệnh hiếm muộn, sinh lý yếu, bệnh phụ nữ, tuyến tiền liệt; Luân xa số 1 ở giữa hậu môn và cơ quan sinh dục ngoài (không có chức năng trị bệnh). Người bệnh đau ở đâu thì nghĩ về Luân xa ấy.
          Bắt đầu vào trị bệnh, người bệnh chọn vị trí thoải mái mát mẻ (tránh tiếng động ồn ào, ruồi muỗi hoặc tác động ngoại cảnh). Ngồi xếp bằng tròn, một chân để trên, một chân để dưới (kiểu ngồi thiền). Hai tay mở để lên đầu gối tự nhiên, lòng bàn tay ngửa lên trên, mắt nhìn thẳng, hít vào từ từ bằng mũi, thở ra từ từ bằng miệng, làm như thế 3 lần, sau đó nhắm mắt lại và ngồi tịnh tâm suy nghĩ về Luân xa mà mình cần chữa cho bệnh nào đó, không được uống rượu, bia trước khi chữa bệnh 4 giờ.
 
          Nhiều người tự chữa khỏi bệnh bằng Trường Sinh học.
 
           Học viên đang tập luyện tại Tịnh xá Pháp Hải  - Ảnh: Nhật Minh.

          Có nhiều người đã tự chữa khỏi bệnh bằng phương pháp Trường Sinh học. Trong những người ấy, có ông Trần Quý, chủ nhà hàng trung tâm tiệc cưới Đông Xuyên, thành phố Vũng Tàu. Nói về tính ưu việt của phương pháp tự chữa bệnh này, ông Quý cho biết: “Thoạt đầu khôn tin, bởi tôi đã mất 40 triệu đồng đi chữa bệnh mà không lành. Trước tôi bị bệnh huyết áp cao, viêm gan B, tinh thần uể oải, trí nhớ giảm sút nghiêm trọng… Sau khi đi học và về nhà tự chữa bệnh qua 7 tháng, đi xét nghiệm lại, men gan ở mức bình thường, huyết áp ở giới hạn cho phép, gam cỏn nhiễm mỡ nhưng ở mức độ nhẹ.
          Theo bà Nguyễn Thị Lài, quê ở Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh hiện đang sinh sống ở Phường 10, thành phố Vũng Tàu thì trước đây bà cũng đủ thứ bệnh, như cao huyết áp, viêm xoang, đau nửa đầu, sỏi thận,… Qua hơn một năm tự chữa bệnh bằng phương pháp Trường Sinh học, bệnh của bà cơ bản đã hoàn toàn chấm dứt, ăn ngủ tốt, da dẻ hồng hào. Bà Lài vui vẻ: “Khi chữa bệnh sang tháng thứ 2, tôi đi tiểu ra sỏi, huyết áp tốt. Có điều phương pháp này phải kiên trì, chữa thường xuyên mới có hiệu quả. Không tốn tiền bạc, mỗi ngày chỉ ngồi vài lần, ít nhất cũng phải được trên 30 phút mỗi lần, hoặc lâu hơn càng tốt,.. Ai cũng có thể đến lớp học rồi về tự chữa cho mình. Bài thuốc này không chỉ chữa khỏi bệnh, mà còn giúp cho người bệnh an về tâm, thịnh về sức”.
          Một nhân chứng khác cũng thành công về chữa bệnh bằng phương pháp Trường Sinh học, đó là chị Nguyễn Thị Minh Huệ, hiện là quân nhân chuyên nghiệp, thuộc Phòng Hậu cần, Lữ đoàn 171 Vùng B Hải quân. Chị Huệ mắc bệnh hiểm nghèo rỗng tủy, phát hiện cách đây gần 2 năm, đã chữa trị tại các bệnh viện lớn như: 108 Hà Nội, 175 TP Hồ Chí Minh. Theo bác sỹ, bệnh của chị Huệ thuộc loại hiểm nghèo, không có khả năng tái tạo tủy. Chị Huệ đi học Trường Sinh học, lúc đầu cũng tự an ủi mình, nhưng sau 3 tháng tự chữa, chị đã mang thai, khỏe lên rất nhiều.
 
Tựa đề bài báo trên Tập san "Người cao tuổi", số 162.

          Sáu ngày học chữa bệnh bằng phương pháp Trường Sinh học đã qua, tôi cũng như bao người bệnh khác trở về trong niềm vui và bắt đầu tự chữa bệnh cho mình. Qua hơn 3 tuần tự chữa, tôi thấy bệnh cũng có phần thuyên giảm, ăn ngon hơn, ngủ sâu hơn, tinh thần ổn định, da hồng hào. Có một điều không thể phủ nhận là tinh thần sảng khoái hơn và luôn nhân ái hướng thiện.
Tác giả bài viết: TRẦN MẠNH TUẤN
Nguồn tin: Tập san NGƯỜI CAO TUÔI, số 162, tháng 8 năm 2010.

25 thg 8, 2013

Lỗ Ban Kinh - bản tiếng Việt

  Jo mới sưu tầm được 2 quyển sách:
1. "Lỗ ban toàn thư" bản tiếng Hán, 
2. "Hướng dẫn sử dụng thước Lỗ Ban" bản dịch sang tiếng Việt.

Bạn nào quan tâm mình gửi qua Mail.

Cuốn sách thuộc hàng kinh điển của ngành kiến trúc và phong thủy, kết hợp hài hòa giữa truyền thống tâm linh Á Đông và khoa học duy lý.
Thước lỗ ban - Tác phẩm kinh điển về kỹ thuật, công nghệ xây dựng trong kiến trúc cổ đại. Đúc kết kinh nghiệm quý báu từ dân gian.
Thước lỗ ban là một trong những công cụ do đạc truyền thống chuyên dùng theo thuật phong thủy Trung Hoa, thường được các nghệ nhân ngành mộc và ngành xây dựng dùng tham khảo khi xem xét  các chuẩn mực mỹ thuật, sự hài hòa và tính tiện dụng tối đa khi thiết kế một côn trình kiến trúc.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương 1: Chọn yếu tố tốt lành để làm nhà

1. Vào rừng chặt cây lấy gỗ
2. Khởi công bắc giàn giáo
3. San nền và dựng cột xây nhà
4. San nền và dựng cột xây nhà
5. Nghi lễ dựng cột - bắc xà
Chương 2: Loại thước chính được sử dụng trong xây dựng
1. Sơ đồ khởi thảo xác định mặt bằng
2. Thước lỗ ban và thước góc (ê ke)
3. Phương pháp dùng thước hợp nhất
4. Cát hung dựa vào số lượng phòng
Chương 3: Hình dáng, cấu tạo và tạo hình trong kiến trúc
1. Quy định tạo hình của phòng ốc
2. Làm cổng
3. Cấu tạo đi kèm công trình kiến trúc
4. Các kiểu kiến trúc khác
5. Xây dựng chuồng trại gia súc gia câm
Chương 4: Chế tạo dụng cụ gia đình
1. Kích thước của những dụng cụ gia đình chính
2. Những loại đồ dùng có công dụng khác
3.Đồ nội thất cỡ nhỡ
Chương 5: Bài vè phong thủy và yểm chất bùa chú giải ách
1. Khởi công xây dựng nhà ở
2. Phương pháp giải bùa của chủ nhà
3. Nguồn gốc của Lỗ Ban tiên sư.
Trân trọng giới thiệu!

23 thg 8, 2013

Phần mềm thước Lỗ Ban - Cách sử dụng thước Lỗ Ban

Các bạn dowload phần mềm miễn phí tại đây: 

http://ketcau.com/FORUM/showthread.php?t=55175

Cảm ơn bạn Lemanhhung0320 rất nhiều, đã lập nên phần mềm này và phổ biến cho mọi người sử dụng.

" Giới thiệu của bạn Hùng:
Xin giới thiệu với các bạn một phần mềm tra thước Lỗ Ban.

Mình không muốn nói nhiều về thước Lỗ Ban, chỉ xin giới thiệu sơ qua về phần mềm.

  • vLB dùng để tra nhanh thước Lỗ Ban loại 52,2cm, 42,9 và 38,8cm.
  • vLB có sử dụng 3 loại ngôn ngữ tiếng Việt là: không dấu, font chữ TCVN và font chữ Unicode. Bạn có thể tùy chọn cho phù hợp trong lúc làm việc.
  • Giới hạn của thước từ 0m đến 15m.
  • Bạn có thể dễ dàng kéo và thả để di chuyển thước.
Có lần phải chọn kích thước bàn thờ, mình biết rằng kích thước từ bàn thờ, đến nhà cửa, đất cát nếu tuân theo thước Lỗ Ban thì rất tốt cho gia chủ (chưa kiểm chứng được ! Việc tra thước Lỗ Ban đã có rất nhiều phần mềm của các chuyên gia phong thủy. Tuy nhiên do lần đầu phải làm việc với thước Lỗ Ban nên mình rất bối rối. Cộng với việc thông tin trên mạng rất nhiều nên thực sự không biết tra như nào cho chuẩn xác.

Sau một thời gian nghiên cứu mình đã tạo ra phần mềm này, hy vọng những bạn dùng nó sẽ không cảm thấy bỡ ngỡ như mình lúc đầu."


Cách sử dụng thước Lỗ Ban:

Qua thực tế thiết kế và thi công một số công trình nhà dân, chúng tôi thường được chủ nhà yêu cầu đo đạc cửa nẻo theo thước Lỗ Ban, điều đó cho thấy người dân vẫn rất tin tưởng vào cây thước cổ truyền này. Tuy không phải là những nhà địa lí nhưng do có tham bác qua một vài thư tịch chúng tôi có thể hướng dẫn các bạn nhanh chóng sử dụng được cây thước này.

 Vấn đề còn lại ở đây là liệu đo đạc theo thước Lỗ Ban có phải là một hành động mê tín hay không. Có người cho đó là mê tín vì một lý do hết sức đơn giản, trên cây thước Lỗ Ban toàn những chữ Hán ngoằn ngèo giống bùa chú. Theo quan niệm cá nhân chúng tôi, thước Lỗ Ban là một cây thước kinh nghiệm, nó không thuộc bất kỳ một hệ thống đo đạc nào trên thế giới, nó đúc kết và được thử nghiệm cả ngàn đời nay chỉ để phân định hai chữ tốt xấu. Dĩ nhiên chỉ bằng một cây thước làm sao cải đổi được vận mạng, nhưng có lẽ qua chính sự sử dụng của các bạn mà nghiệm được rằng khi tai họa có đến cũng nhẹ đi một chút, lộc phúc có đến cũng may mắn hơn thêm.
THÂN THẾ LỖ BAN

Lỗ Ban 魯班, truyền thuyết họ Công Thâu  公輸 tên gọi là Ban  般, người nước Lỗ đời Xuân Thu (hiện tại thuộc tỉnh Sơn Đông), cùng thời Mặc Tử - một triết gia nổi tiếng. Vì ông là người nước Lỗ 魯, chữ Ban 般 và Ban 班 là đồng âm, cho nên mọi người đều gọi ông là Lỗ Ban 魯班. Ông là một người thợ nổi tiếng thời cổ đại và cũng là một nhà phát minh xuất sắc. Từ ngàn năm nay, thợ mộc và thợ xây dựng Trung Quốc đều tôn thờ ông như một vị tổ sư.
THƯỚC LỖ BAN
Các nhà địa lí thường họ có cho riêng mình một cây thước Lỗ Ban (bằng gỗ) nhưng chúng ta chỉ sử dụng một lần cho ngôi nhà của mình nên không cần phải tự làm riêng chi cho tốn kém, chỉ cần đến các tiệm bách hóa dọc đường Lê Lợi (Sài Gòn) là có thể mua được một cây thước kéo có kèm thước Lỗ Ban. Xin khẳng định trước để các bạn yên tâm là thước Lỗ Ban này hoàn toàn chính xác, sử dụng được.
Khi kéo cây thước này ra các bạn sẽ thấy có 2 hàng chữ Hán nằm trong các ô, một hàng chữ lớn và một hàng chữ nhỏ. Các bạn cứ lần theo hàng chữ lớn cho đến ô có số 1 nhỏ, đối chiếu ta được 42.9 cm hoặc gần 17 inches, đó chính là chiều dài của một cây thước Lỗ Ban. Như vậy suốt chiều dài cây thước kéo, loại 5 m chẳng hạn, chỉ là một sự lập đi lập lại hơn 11 cây thước Lỗ Ban. Điều đó là một thuận tiện vì nếu sử dụng thước Lỗ Ban gỗ tự làm (chỉ một đoạn 42.9 cm) như các nhà địa lí, khi đo một khoảng cách lớn phải dời thước tới lui gây ra sai số, có thể chệch đi tốt xấu trong gang tấc.Một cây thước Lỗ Ban có 8 cung (hàng chữ lớn, nằm trong ô vuông), là biến thể của đồ hình Bát quái, thay vì sắp theo hình tròn người ta sắp lại theo hàng ngang. Trong 8 cung đó có 4 cung tốt (màu đỏ) và 4 cung xấu (màu đen), đi từ trái sang phải sắp xếp theo thứ tự sau
Tài  財 - Bệnh  病 – Li  離 - Nghĩa  義 - Quan  官- Kiếp  劫 - Hại  害 - Bản  本

Trong mỗi cung đó lại chia thành 4 cung nhỏ mà chúng tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho các bạn hiểu. Chú ý là chúng ta vẫn đang xem xét hàng chữ lớn.


·
Cung thứ 1 (đỏ, tốt) – Tài 財 : tiền của, chia thành
- Tài Đức  財德 : có tiền của và có đức
- Bảo Kho  寶庫 : kho báu
- Lục Hợp  六合 : sáu cõi đều tốt (Đông-Tây-Nam-Bắc và Trời-Đất)
- Nghinh Phúc  迎福 : đón nhận phúc đến

·
Cung thứ 2 (đen, xấu) – Bệnh 病 : bệnh tật, chia thành
- Thoái Tài  退財 : hao tốn tiền của, làm ăn lỗ lã
- Công Sự  公事 : tranh chấp, thưa kiện ra chính quyền
- Lao Chấp  牢執 : bị tù
- Cô Quả  孤寡 : chịu phận cô đơn

Cung thứ 3 (đen, xấu) – Li 離 : chia lìa, chia thành
- Trường Khố  長庫 : dây dưa nhiều chuyện
- Kiếp Tài  劫財 : bị cướp của
- Quan Quỉ  官鬼 : chuyện xấu với chính quyền
- Thất Thoát  失脫 : mất mát

·
Cung thứ 4 (đỏ, tốt) – Nghĩa 義 : chính nghĩa, tình nghĩa, chia thành
- Thiêm Đinh  添丁 : thêm con trai
- Ích Lợi  益利 : có lợi ích
- Quí Tử  貴子 : con giỏi, ngoan
- Đại Cát  大吉 : rất tốt

·
Cung thứ 5 (đỏ, tốt) – Quan 官 : quan chức, chia thành
- Thuận Khoa  順科 : thi cử thuận lợi
- Hoạnh tài  橫財 : tiền của bất ngờ
- Tiến Ích  進益 : làm ăn phát đạt
- Phú Quý  富貴 : giàu có

·
Cung thứ 6 (đen, xấu) – Kiếp 劫 : tai họa, chia thành
- Tử Biệt  死別 : chia lìa chết chóc
- Thoái Khẩu  退口 : mất người
- Ly Hương  離鄉 : xa cách quê nhà
- Tài Thất  財失 : mất tiền của

·
Cung thứ 7 (đen, xấu) – Hại 害 : thiệt hại, chia thành
- Tai Chí  災至 : tai họa đến
- Tử Tuyệt  死絕 : chết mất
- Bệnh Lâm  病臨 : mắc bệnh
- Khẩu Thiệt  口舌 : mang họa vì lời nói

·
Cung thứ 8 (đỏ, tốt) – Bản 本 : vốn liếng, bổn mệnh, chia thành
- Tài Chí  財至 : tiền của đến
- Đăng Khoa  登科 : thi đậu
- Tiến Bảo  登科 : được của quý
- Hưng Vượng  興旺 : làm ăn thịnh vượng

Tiếp theo chúng tôi giải thích sơ lược phần thước có hàng chữ nhỏ, đây là thước Lỗ Ban kết hợp, nó có chiều dài 38.8 cm


(các bạn sẽ thấy số 1 nhỏ xuất hiện tại vị trí này), và cũng như phần trên nó cũng lập đi lập lại suốt chiều dài thước kéo. Thước này gồm 10 cung, 6 cung tốt (màu đỏ) và 4 cung xấu (màu đen). Đi từ trái sang phải, thứ tự như sau


· Cung 1 (đỏ, tốt) – Đinh 丁 : con trai, chia thành
- Phúc Tinh 福星 : sao Phúc
- Cập Đệ 及第 : thi đỗ
- Tài Vượng 財旺 : được nhiều tiền của
- Đăng Khoa 登科 : : thi đậu

· Cung 2 (đen, xấu) –
Hại 害 , chia thành
- Khẩu Thiệt  口舌:  mang họa vì lời nói
- Bệnh Lâm  病臨:  mắc bệnh
- Tử Tuyệt  死絕:  chết mất
- Tai Chí   災至:  tai họa đến

· Cung 3 (đỏ, tốt) –
Vượng 旺 : thịnh vượng, chia thành
- Thiên Đức  天德 : đức của trời ban
- Hỉ Sự  喜事 : gặp chuyện vui
- Tiến Bảo  喜事: được của quý
- Nạp Phúc  納福 : đón nhận phúc

· Cung 4 (đen, xấu) –
Khổ 苦 : khổ đau, đắng cay, chia thành
- Thất Thoát  失脫: mất mát
- Quan Quỉ  官鬼 : chuyện xấu với chính quyền
- Kiếp Tài  劫財: bị cướp của
- Vô Tự  無嗣: không con nối dõi

· Cung 5 (đỏ, tốt) – Nghĩa 義, chia thành
- Đại Cát  大吉: rất tốt
- Tài Vượng  財旺 : nhiều tiền của
- Ích Lợi  益利: có lợi ích
- Thiên Khố  天庫 : kho trời

· Cung 6 (đỏ, tốt) –
Quan 官, chia thành
- Phú Quy  富貴: giàu có
- Tiến Bảo  進寶: được của quý
- Hoạnh Tài  橫財: tiền của bất ngờ
- Thuận Khoa  順科: thi cử thuận lợi

· Cung 7 (đen, xấu) –
Tử 死 : chết chóc, chia thành
- Ly Hương  離鄉: xa cách quê nhà
- Tử Biệt  死別: chia lìa chết chóc
- Thoái Đinh  退丁 : mất con trai
- Thất Tài  失財 : mất tiền của

· Cung 8 (đỏ, tốt) –
Hưng 興 : hưng thịnh, chia thành
- Đăng Khoa  登科: thi đậu
- Quí Tử  貴子 : con giỏi, ngoan
- Thêm Đinh  添丁 : thêm con trai
- Hưng Vượng  興旺: làm ăn thịnh vượng

· Cung 9 (đen, xấu) –
Thất 失 : mất mát, chia thành
- Cô Quả  孤寡: chịu phận cô đơn
- Lao Chấp  牢執 : bị tù
- Công Sự  公事: tranh chấp, thưa kiện ra chính quyền
- Thoái Tài  退財 : hao tốn tiền của, làm ăn lỗ lã

· Cung 10 (đỏ, tốt) –
Tài 財, chia thành
- Nghinh Phúc  迎福:  đón nhận phúc đến
- Lục Hợp  六合sáu cõi đều tốt (Đông-Tây-Nam-Bắc và Trời-Đất)
- Tiến Bảo  進寶: được của quý
- Tài Đức  財德: có tiền của và có đức
CÁCH ĐO ĐẠC
Thước Lỗ Ban được sử dụng đo đạc trong xây dựng dương trạch (nhà cửa) và âm cơ (mộ phần). Ở đây chúng tôi chỉ bàn về xây dựng nhà cửa.

Trong nhà, cái quan trọng nhất là cửa nẻo, chỗ chúng ta hàng ngày vẫn đi qua lại. Sách Đạo Đức Kinh, chương 11, Lão Tử có nói Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô, hữu thất chi dụng 鑿戶牖以為室當其無有室之用 nghĩa là Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Khi đo cửa, các bạn nên nhớ chỉ đo khoảng thông thủy, nghĩa là tính từ mép trong của cửa, điều này rất quan trọng, vì nhiều khi các bạn chừa lỗ cửa đúng kích thước Lỗ Ban nhưng khi lắp cửa vào do có thêm các gờ đố cửa mà làm sai chệch cung tốt – xấu. Cách thức đo là các bạn kéo thước từ mép cửa này sang mép cửa kia, nếu rơi vào cung đỏ là ta được kích thước tốt, rơi vào cung đen là kích thước xấu, đo cả chiều rộng lẫn chiều cao cửa. Nhưng có một điều các bạn đặc biệt lưu ý, do thước Lỗ Ban của chúng ta sử dụng có thêm phần thước kết hợp, tức là phần thước hàng chữ nhỏ, nên có khi cửa đã lọt vào cung tốt ở hàng trên, hàng dưới lại là cung xấu và ngược lại. Đó chính là luật bù trừ trong vũ trụ, ta được ở mặt này lại mất ở mặt khác, không thể có cái gọi là hoàn hảo trên đời này. Như vậy, để được một kích thước tốt, cần phải trên đỏ, dưới đỏ. Ví dụ, cửa phòng bạn có kích thước 85 cm, nghĩa là lọt vào cung Hưng Vượng  興旺, màu đỏ / tốt nhưng đối chiếu hàng bên dưới lại lọt vào cung Tai Chí 災至, màu đen / xấu. Để khắc phục các bạn có thể nới rộng cửa ra từ 86 đến 89 cm chẳng hạn. Cách sửa chữa khi cửa lọt vào cung xấu là các bạn có thể bào bớt cửa, đóng thêm nẹp, hoặc cùng lắm là làm lại khuôn cửa và cánh cửa mới cho đúng kích thước.
Ngoài cửa nẻo ra thì giường nằm và bàn làm việc cũng nên theo kích thước Lỗ Ban. Cách thức đo tương tự.


SỰ ỨNG NGHIỆM CỦA CÁC CUNG

· Cung Tài 財: nghĩa là tiền của, ứng nghiệm tốt nhất với cổng lớn, nơi đón nhận của cải từ ngoài vào.
· Cung Bệnh 病: là đau bệnh, ứng đặc biệt vào nhà vệ sinh. Nơi này thường là góc hung (xấu) của nhà, cửa lọt vào chữ Bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh tật sinh ra.
· Cung Ly 離: là chia lìa, rất kị cho cửa trong nhà. Cửa lọt vào chữ Ly, chồng thì làm ăn xa nhà, vợ gặp điều quyến rũ, con cái hoang đàng phá phách.
· Cung Nghĩa 義: rất tốt cho cổng lớn và cửa nhà bếp, cửa các phòng thông nhau thì không nên.
· Cung Quan 官: rất kị ở cổng lớn vì tránh chuyện kiện tụng ra chính quyền, nhưng lại tốt ở cửa phòng riêng vợ chồng vì sẽ sinh con quí tử.
· Cung Kiếp 劫: là bị cướp, tượng trưng cho tai họa khách quan đến từ bên ngoài khiến hao tổn tiền của. Tránh ở cổng lớn, nhất là các cửa hàng, tiệm buôn càng nên lưu ý.
· Cung Hại 害: tượng trưng cho mầm xấu nhen nhúm từ bên trong, kị ở các cửa phòng trong nhà.
· Cung Bản 本: thích hợp cho cổng lớn.

LỜI KẾT

Như vậy là chúng tôi đã trình bày cặn kẽ cây thước Lỗ Ban – một kinh nghiệm cổ truyền quí báu – hòng giúp các bạn tự mình có thể đo đạc tìm ra một kích thước tốt nhất cho cửa nẻo ngôi nhà. Trong cuộc sống, họa phúc khôn lường, như câu chuyện Tái ông thất mã thì rõ ràng họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của họa. Dẫu biết vậy nhưng đã là con người ai không mong gặp chuyện phúc lành, may mắn tránh bớt điều tai ương, rủi ro. Sử dụng thước Lỗ Ban cũng là vì lí do đó, các bạn nên nhớ rõ cho rằng một cây thước không thể quyết định được vấn đề họa phúc, nó chỉ tạo cho mình một sự vững tâm khi ra ngoài tiếp xúc với xã hội, chính sự vững tâm đó mới mang lại những cơ hội tốt lành cho bản thân.
Cuối cùng chúng tôi mong rằng các bạn sử dụng và yêu mến cây thước Lỗ Ban như một kinh nghiệm của ngày xưa, các bạn đừng quá tôn thờ đặt hết niềm tin vào nó để rồi biến nó thành một trò mê tín dị đoan. Chúng tôi xin được mượn lời của Khổng Tử làm lời kết cho bài viết này, Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ 攻乎異端斯害也已 (Luận Ngữ, chương Vi Chính, tiết 16), nghĩa là Chuyên chú vào những điều dị đoan, chắc chắn có hại.

Sưu tầm

22 thg 8, 2013

Thước Lỗ ban và Hệ thống thước đo thời Nguyễn

ST

Hệ thống thước đo thời Nguyễn


Ðối với mối quốc gia, mỗi dân tộc, hệ thống thước đo là sự biểu hiện một cách trực tiếp và cụ thể phương thức tư duy, cách tính toán và cả đặc trưng văn hóa của họ. Tuy nhiên, đã từ hàng thế kỷ nay, với ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, hệ thước mét có nguồn gốc từ châu Âu đã dần dần "thôn tính" hoàn cầu, khiến ít quốc gia, dân tộc còn giữ được hệ thước đo truyền thống của mình. Việt Nam chúng ta không phải là một ngoại lệ. Thực tế này biểu hiện rất rõ trong mọi mặt của cuộc sống, ngay cả trong những ngành nghề được xem là truyền thống mà chúng ta đang cố gắng giữ gìn như nghề mộc, nề ngõa, chạm khắc, may thêu (trang phục truyền thống) thì việc sử dụng hệ thước Tây đã trở thành phổ biến.vv.. Nhưng việc khôi phục lại hệ thống thước đo xưa có lẽ là rất viễn vông và sẽ không ít người cho là lố bịch nếu chúng ta không hiểu được ý nghĩa và những giá trị văn hóa sâu sắc hàm chứa bên trong nó. Trên tinh thần ấy, trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin nêu lên một số kết quả trong việc tìm hiểu về hệ thống thước đo được sử dụng trong thời Nguyễn (1802-1945), thời kỳ tồn tại của chế độ quân chủ cuối cùng tại Việt Nam; cũng là thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử dân tộc từ Trung Ðại sang Cận Ðại và Hiện Ðại.

Thước đo thời Nguyễn
Liên quan đến các hệ đo lường cũ (gồm cả cân, đong, đo, đếm), từ trước đến nay đã có một số người quan tâm nghiên cứu nhưng các kết quả đã công bố thì vẫn còn rất khiêm tốn. Thực ra, hệ đo lường trước đây của người Việt khá phong phú và có đặc điểm riêng, muốn tìm hiểu nguồn gốc và cách sử dụng thực không phải đơn giản. Ở bài viết này chúng tôi chỉ xin đề cập riêng đến hệ thước đo truyền thống được sử dụng trong thời Nguyễn.

I.Ðôi điều về cách hiểu hiện nay về hệ thước đo truyền thống

Có thể nói, cho đến hiện tại việc hiểu và giải thích về hệ thước truyền thống của chúng ta vẫn còn nhiều điều bất cập, nếu không nói là lộn xộn và còn không ít nhầm lẫn. Thử điểm qua hệ thống từ điển và những công trình lớn đã và đang được sử dụng phổ biến hiện nay thì chúng ta sẽ thấy rõ điều này:

1-Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên:

- Chữ Thước có 4 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ hai được giảng như sau: "1.Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng khoảng 0,425m (thước mộc), hoặc bằng 0,645m (thước đo vải). 2 Ðơn vị cũ đo diện tích ruộng đất, bằng 24m2(thước Bắc Bộ) hoặc bằng 33m2(thước Trung Bộ). Nhà có dăm thước đất."

+ Chữ Thước mộc thì được định nghĩa: "Ðơn vị cũ đô độ dài, bằng 0,425m"

+ Thước ta d. (kng). Thước mộc, phân biệt với mét (thước tây).
+ Thước thợ d. Thước của thợ mộc dùng để đo góc vuông. (tr.1007)


- Chữ Dặm có 3 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất là: "Ðơn vị cũ đo độ dài bằng 444,44 mét..."(tr.264).


- Chữ Trượng có 2 nghĩa là: "1 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng 10 thước Trung Quốc cổ(tức là bằng 3,33 mét). 2 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng bốn thước mộc (tức là bằng 1,70 mét). Thang cao hai trượng". (tr. 1093)
2-Theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh:
-"Xích : Thước đo, là 10 tấc". (tr.576)
-Chữ Tầm có 5 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Tám thước (xích) là một tầm". (tr.245).
-Chữ Trượng có 2 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Mười thước là một trượng". (tr.519).
3- Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu:
-" Xích: Thước, mười tấc là một thước". (tr.156).
4-Theo Từ lâm Hán Việt từ điển của Vĩnh Cao và Nguyễn Phố:
-"Chữ Xích: (danh) Ðơn vị đo chiều dài, thước (Trung Quốc), mười tấc là một thước, (tương đương 0,33m)". (tr.331).
-Chữ Lý có 2 nghĩa, trong đó nghĩa thứ hai là "Ðơn vị đo độ dài. Gồm có: a.Công lý: Kilomètre (3125 xích). b.Thị lý dài chừng 1562,55 xích. c. ?Dặm, đơn vị độ dài ngày xưa dùng để xây dựng, dài 1800 xích (576m)".(tr.1368).
5- Theo Nguyễn Ðình Ðầu trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn
*Tập Biên Hòa (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994):
- Trường xích: 0,4664m
*Tập Thừa Thiên (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997):
- Ðiền xích: (thước đo ruộng) 0,4664m
6-Theo Lê Thành Khôi trong bài Tìm hiểu một số đơn vị đo lường ngày trước đăng trên Kỷ yếu Hội thảo phục hồi điện Cần Chánh (Trung tâm BTDTCÐ Huế & Ðại học Waseda xuất bản năm 2000):
"Dưới triều Nguyễn, thước đo được khoảng 0,425cm. Năm 1890, giá trị của nó được ấn định là 0,4m.
Trượng 10 thước 4m
Ngũ 5 thước 2m
Thước 10 tấc 0,40m
Tấc 10 phân 0,04m
Ngoài từ ngũ, tất cả các đơn vị khác đều mang hình thức thập phân. Ngũ không phải là đơn vị bậc dưới của trượng, nhưng là một đơn vị có thể thay thế trượng. Khi người ta dùng trượng thì không dùng ngũ và ngược lại"(tr.93)
..vv...
Như vậy, ngay cả trong hệ thống từ-tự điển và các sách công cụ đang được sử dụng rất phổ biến hiện nay, hệ thống thước đo truyền thống vẫn được hiểu không thống nhất, nếu không nói là là vừa thiếu vừa lộn xộn! Ðiều này thể ở những đặc điểm sau:
-Ðịnh nghĩa không đầy đủ.
-Không phân biệt được hệ thống thước đo theo từng loại hình riêng biệt.
-Cách hiểu về một đối tượng giữa các từ điển không giống nhau.
-Nhầm lẫn hoặc hiểu một cách mập mờ về hệ thống thước đo giữa ta và Trung Quốc.
Thực ra, để hiểu một cách chính xác và đầy đủ về hệ thống thước đo truyền thống của dân tộc chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về loại hình, công năng cũng như lịch sử tồn tại của hệ thống thước đo này.

II. Các hệ thước đo của người Việt trong thời Nguyễn.

Hệ thước đo xưa của người Việt, về cơ bản gồm 3 loại chính là hệ thước đo vải -hay thước may (tên chữ Hán là Phùng xích hay Quan Phùng xích, hệ thước đo ruộng đất-hay thước ruộng (tên chữ Hán là Ðiền xích hay Ðộ Ðiền xích và hệ thước mộc-hay thước ta (tên chữ Hán là Quan mộc xích: hay Mộc xích.
Dưới đây chúng tôi sẽ bước đầu giới thiệu về từng hệ thước, trong đó sẽ đặc biệt chú trọng đến hệ thước mộc

1- Hệ thước đo vải -hay thước may

Chưa rõ hệ thước này có nguồn gốc xuất phát từ đâu, chỉ biết độ dài của nó luôn khác với hệ thước khác. Một số nghệ nhân nghề dệt truyền thống thì cho rằng, chiếc thước này được hình thành và bị "ràng buộc" với khuôn khổ của chiếc khung cửi cổ truyền. Sự hạn chế của phương pháp thủ công khiến kích thước khổ vải dệt ngày xưa ít thay đổi qua thời gian. Bởi vậy, dù kích thước của các cây thước mộc, thước ruộng từng thay đổi rất nhiều qua các triều đại, nhưng đối với cây thước may thì sự điều chỉnh trên hầu như không đáng kể. Hiện nay, tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế vẫn còn lưu giữ được một cây thước rất đẹp, tương truyền là thước của Bộ Công triều Nguyễn (xem ảnh). Toàn bộ cây thước này dài đúng 1 mét Tây (100cm); 3 mặt khắc giá trị của 3 loại thước khác nhau, gồm Kinh xích, Chu Nguyên xích và Phùng xích. Tại mặt khắc giá trị của Phùng xích, tức thước đo vải- thước may, giá trị của 01 thước đo được là 59,80cm, tức xấp xỉ 0,6m(1).
Tuy nhiên, theo các thợ may lão thành vùng Huế, thì giá trị của cây thước may cũng có thể dao động trong khoảng từ 0,6m-0,65m. Những cây thước cổ thường có giá trị lớn hơn, trong khoảng 0,64-0,65m, còn những cây thước muộn thường có giá trị xấp xỉ 0,6m. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học, không rõ căn cứ vào đâu nhưng cũng cho rằng, giá trị cây thước may là 0,645m. Như vậy, bước đầu có thể nhận định rằng, dưới thời Nguyễn, giá trị thực của cây Phùng xích hay thước may nằm trong khoảng 0,6m-0,65m.

2- Hệ thước đo ruộng đất-hay thước ruộng

Căn cứ vào sử sách, có thể khẳng định rằng, hệ thước đo ruộng đất được áp dụng dưới thời Nguyễn là có nguồn gốc từ thời Lê. Tuy nhiên, việc áp dụng hệ thước đo này cũng có diễn biến rất phức tạp.
Nguyên từ thời chúa Nguyễn, các chúa đã cho đo ruộng đất toàn bộ Ðàng Trong để lập địa bạ từ năm 1669. Nhưng không rõ giá trị của cây Ðiền xích lúc ấy là bao nhiêu và có phải nó đúng là cây thước vốn được sử dụng từ triều Lê hay không? Nhưng đến đầu triều Nguyễn, vào năm Gia Long thứ 5 [1806], để thống nhất đơn vị đo ruộng đất trong toàn quốc, nhà vua đã sai chế ra cây thước Trung Bình (Trung Bình xích: Cây thước này được áp dụng đến năm 1810, sau khi một người dân ở xã Cổ Linh, huyện Gia Lâm trình lên cây Ðiền xích của nhà Lê và vua Nguyễn cho áp dụng nó làm cây thước chuẩn để đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc thì mới chấm dứt vai trò. Sách Ðại Nam thực lục của Quốc Sử Qúan triều Nguyễn có ghi rõ: "Tháng 8 [Năm Canh Ngọ, Gia Long thứ 9 (1810)], ban thước kinh đo ruộng cho trong ngoài. Thước kinh do triều Lê cũ chế ra ban hành đã lâu, dân gian vẫn thường dùng. Năm Gia Long thứ 5 [1806] mới dùng thước trung bình, chế hơi dài hơn, bởi thế đo ruộng mẫu số sai nhau nhiều. Vua sai hỏi tìm được thước kinh cũ. Lấy được ở dân xã Cổ-linh huyện Gia-lâm, bèn theo cách thức ấy lấy đồng (nặng 1 cân12 lạng) mà làm ban cho các thành dinh trấn. Những ruộng đất công tư từ trước đã dùng thước trung bình mà khám đạc, thì làm sổ để đó mà theo. Từ nay nếu có việc tranh địa giới hay tố cáo ẩn lậu và báo xin khai khẩn thì dùng thước kinh để đo" (2).
Như vậy, từ năm 1810 trở về sau, cây thước đo ruộng của triều Nguyễn chính là cây Ðiền xích của triều Lê; giá trị của nó được xác định bằng 47cm (lúc này, 01 mẫu ta ruộng đất được tính bằng một diện tích hình vuông, mỗi cạnh là 150 thước, tức bằng 4.970m2). Việc áp dụng cây thước này trên toàn quốc kéo dài đến năm 1867 thì giới hạn lại trong khu vực Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì Nam Kỳ đã bị thực dân Pháp chiếm đóng và áp dụng theo hệ thước đo của người Pháp, tức hệ thước mét. Ðến năm 1898, cây thước trên chỉ còn áp dụng tại khu vực Trung Kỳ do tại Bắc Kỳ đã áp dụng một hệ thước có giá trị nhỏ hơn. Sở dĩ chúng ta biết được điều này vì trong Sử cũng ghi rõ, vào ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Pháp Paul Doumer đã ra một nghị định quy định: "Kể từ ngày 1/1/1898, ở Bắc Kỳ, 01 thước ta có độ dài bằng 0,4 mét (tức thụt hơn trước 0,070 mét)"(3) Theo tác giả cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử thì đây thực chất là một thủ đoạn nham hiểm của thực dân Pháp nhằm tăng diện tích ruộng đất lên một cách giả tạo, mục đích là để tăng ngân sách từ việc đánh thuế vào người nông dân. Bởi từ thời điểm này trở đi, 01 mẫu ta áp dụng ở Bắc Kỳ chỉ còn bằng 3.600 m2(4).
Còn ở Trung Kỳ, cây thước Ðiền xích vẫn giữ nguyên giá trị độ dài là 47cm đến khi nhà Nguyễn cáo chung, thậm chí đến tận ngày nay một số người vẫn quen "tư duy" bằng cây thước này.
Có một trường hợp rất thú vị có thể dẫn ra ở đây là tại đình làng Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để "cố định hóa" cây Ðiền xích và để không ai có thể thay đổi được, dân làng Văn Xá đã đem khắc nguyên giá trị của cây Ðiền xích lên cột đình làng. Qua bao nhiêu lần sửa sang tu bổ, cây thước này vẫn không hề suy suyển, giá trị của nó vẫn là 47cm!

3- Hệ thước mộc- hay thước ta:

Ðây là loại thước khá phức tạp bởi bao gồm nhiều hệ khác nhau, cụ thể gồm 3 hệ chính:
+ Hệ thước đo độ dài.
+ Hệ thước kỹ thuật hay thước nghề
+ Hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên.
- Về thước đo độ dài tức cây thước đo chiều dài của cột, kèo, gian, chái, đo chiều dài đường đi hay khoảng cách giữa các khu vực. Ðây là cây thước phổ biến nhất nên được gọi là Thước Kinh. Thước Kinh dưới thời Nguyễn trong giai đoạn đầu có giá trị trong khoảng 42,4cm-42,5cm. Ðiều này được chứng minh bằng kết quả khảo sát đo đạc khu vực Hoàng thành cùng các công trình kiến trúc cung đình của Huế mà chúng tôi đã từng công bố trên Tạp chí Khảo Cổ Học, số 1/1998 (5). Tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/1898, theo Nghị định của Toàn quyền Paul Doumer, cây thước này đã bị hợp nhất với cây thước đo ruộng và đều gọi chung là Thước ta, với giá trị là 40cm. Cây thước hiện lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, chắc chắn được làm sau thời điểm này nên mặt Kinh Xích (thước Kinh) của nó có giá trị là 40cm.
- Về hệ thước kỹ thuật hay thước nghề thì có nhiều loại: thước Ðinh, thước Sàm, thước Vuông, thước Nách...Nhìn chung đây đều là những loại thước phục vụ cho người thợ mộc trong quá trình thao tác kỹ thuật. Lê Vĩnh An trong bài Công cụ chế tác nhà rường Huế đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2/2002 đã có sự giới thiệu khá kỹ về các loại thước này. Nhìn chung, các loại Thước nghề thường khắc kèm giá trị của cây thước Kinh để tiện dụng cho người thợ.


- Về hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên thì hết sức phức tạp bởi có rất nhiều loại với quan niệm và cách sử dụng khác nhau.

Lỗ Ban là tên một người thợ mộc lừng danh của Trung Hoa cổ đại, tương truyền là người phát minh ra cưa, đục và các dụng cụ của nghề mộc. Ông được tôn làm Tổ của ngành mộc Trung Quốc. Thước Lỗ Ban tương truyền là do ông sáng chế, nó còn có các tên gọi khác như Môn xích, Bát tự xích. Ðây là loại thước người thợ mộc thời xưa dùng để đo kích thước nhà cửa, phòng ốc, đình viện, giường phòng và các loại khí cụ. 

Theo sách Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển của Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh, hiện nay tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh vẫn còn 1 cây Môn Xích, được xem là cây thước chân truyền của đời xưa. Thước dài 46cm, rộng 5,5cm, dày 1,36cm. 2 mặt lớn của thước đều chia làm 8 trực. Một mặt, giữa các trực khắc các chữ "Tài Ðại Tinh, Bệnh Thổ Tinh, Li Thổ Tinh, Nghĩa Thủy Tinh, Quan Kim Tinh, Chấp Hỏa Tinh, Hại Hỏa Tinh, Cát Kim Tinh", 2 bên lại khắc các câu về điều tốt xấu (cát, hung).

Mặt kia, giữa 8 trực khắc các chữ: "Quý Nhân Tinh, Thiên Hội Tinh, Tể Tướng Tinh, v.v... Mỗi trực lớn, ở hai bên lại chia khắc 5 trực nhỏ, phân ra khắc các chữ "Quý Nhân", "Phát Tài", hoặc Tà Yêu, Hội Hại.v.v...( 6)

Nhìn chung trong thời cổ, ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng văn hoá Hán, thước Lỗ Ban được sử dụng rất phổ biến và có nhiều biến dạng.


Hiện nay có 2 loại thước Lỗ Ban chính, lưu truyền không chỉ ở nước ta mà còn ở cả Trung Quốc, Ðài Loan, Hồng Kông là: thước trực 8 (Bát môn xích) và thước trực 10 (Thập môn xích) với giá trị rất khác nhau. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy cả 2 loại thước này cùng in trên cây thước sắt cuốn do Ðài Loan sản xuất (thường in kèm trong thước sắt 7,5m), bán khá phổ biến tại trên thị trường.
Theo 2 loại thước này thì:


1- Loại thước trực 8 (8 tấc) dài tổng cộng 42,8cm, 8 trực là: TÀI-BỆNH-LI-NGHĨA-QUAN-CHẤP-HẠI-BẢN; 

mỗi trực lại chia thành 4 phần chia làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:
TÀI: Tài Ðức, Bửu Khố - Lục Hợp, Nghênh Phúc
BỆNH: Thoái Tài, Công Sự - Tể Chấp, Cô Quả
NGHĨA: Thiêm Ðinh, Ích Lợi - Quý Tử, Ðại Cát
QUAN: Thuận Lợi, Hoành Tài - Tấn Ích, Phú Quý
CHẤP: Tử Biệt, Thoái Khẩu - Li Hương, Tài Thất
HẠI: Linh Chí, Tử Tuyệt - Bệnh Lâm, Khẩu Thiệt
BẢN: Tài Chí, Ðăng Khoa - Tấn Bửu, Hưng Vượng
Toàn bộ thước gồm 32 từ kép với 64 chữ.

2 - Loại thước trực 10 dài tổng cộng 38,8cm

10 trực là:
ÐINH-HẠI-VƯỢNG-KHỔ-NGHĨA-QUAN-TỬ-HƯNG-THẤT-TÀI. Mỗi trực lại chia thành 4 phần chia làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:
ÐINH: Phúc Tinh, Cập Ðệ - Tài Vượng, Ðăng Khoa
HẠI: Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm -Tử Tuyệt, Linh Chí
VƯỢNG: Thiên Ðức, Hỉ Sự - Tấn Bửu, Nạp Phúc
KHỔ: Thất Thoát, Quan Quỷ - Chấp Tài, Vô Tự
NGHĨA: Ðại Cát, Tài Vương - Ích Lợi, Thiên Khố
QUAN: Phú Quý, Tấn Bửu - Hoành Tài, Thuận Khoa
TỬ: Li Hương, Tử Biệt - Thối Ðinh, Thất Tài
HƯNG: Ðăng Khoa, Quý Tử - Thiêm Ðinh, Hưng Vượng
THẤT: Cô Quả , Tể Chấp - Công Sự, Thối Tài
TÀI: Nghênh Phúc, Lục Hợp - Tấn Bửu, Tài Ðức
Toàn bộ thước gồm 40 từ ghép với 80 chữ.
Tuy nhiên trên thực tế tại nước ta, thước Lỗ Ban có nhiều biến thể rất phong phú. Cùng là loại Bát môn xích nhưng có cây thước giá trị là 43,9cm, có cây dài đến 56cm (thước Chu Nguyên xích tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế), cũng có cây chỉ dài 28,4cm... nên thật khó có kết luận chung về loại thûúác này! (xem bảng thống kê các cây thước tiêu biểu của chúng tôi in kèm ở phần Phụ lục).
Trên đây chỉ là một số ý kiến mang tính chất đặt vấn đề của chúng tôi về hệ thước đo truyền thống của dân tộc. Chúng tôi rất mong vấn đề này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và thảo luận kỹ càng hơn.

Chú thích:

(1). Cây thước tại Bảo tàng MTCÐ Huế mặt khắc 3 cây thước khác nhau là:


1-Chu nguyên xích: 55,8cm, gồm 8 cung, mỗi cung 7cm
2-Kinh xích: 40,5cm, trực 10, mỗi cung=4,05cm
3-Phùng xích: 59,7cm, trực 10, mỗi cung =5,97cm



Trên Chu nguyên xích có khắc 2 dòng chữ Hán,
Dòng bên trái:


Bảo vật hà hội thủ
Phân minh định bất sai
Nhất thân li bệnh tật
Dâm loạn nam nữ ương
Phu thê xung khắc viễn
Nam nữ thất gia hương
Tài lộc toàn gia quý
Trập thằng tích hí phương
Bửu tấn tăng điền trạch`
Thông minh trí huệ anh
Quan sự lâm li tán
Ðạo tặc viễn tức hoành
Phá gia tài thoái tán
Phong vũ bất an ninh
Ngũ âm tài đỉnh xuất
Công hầu phú quý vinh


Bên hữu có hàng dọc:

Tham lang tiến hoành tài
Xứng ý tự nhiên lai
Cự môn hiếu phục thương
Du hí tẩu tha phương
Lộc tồn nhân đa lang
Li biệt hựu bất tường
Văn khúc chuí văn chương
Ðại đại cận quân vương
Vũ khúc quan lộc tinh
Phú quý thộ khang ninh
Liêm trinh tửu sắc sinh
Lộ vong nhân tương tranh
Phá quân chủ năng hoạch
Thập ác bột nghịch hành
Phụ bật suất tướng tinh
Kim ngân đường mẫu dinh.


Theo chúng tôi, kích cở 100cm của cây thước tại Bảo tàng cho thấy nó đã ảnh hưởng Tây và có lẽ làm muộn, trong khoảng cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX. Còn mặt Kinh xích tức loại thước phổ thông hay thước mộc. Nguyên cây thước này có kích thước 40cm (theo quy định áp dụng từ đầu năm 1898 của Toàn quyền Ðông Dương Paul Doumer), khoảng 0,5cm hẳn là do thợ thủ công làm dôi ra. Ðồng thời, theo giới thợ mộc, kích thước của cây THƯỚC ÐINH này là rất đúng quy chuẩn theo "khẩu truyền" của giới làm mộc, tức mặt thước phải rộng 1 tấc(4cm), lưng rộng nửa tấc(2cm). Nhưng điều này cũng cho thấy thước được làm muộn, sau quy định của Toàn quyền Ðông Dương năm 1898, nên mới được hiểu 1thước=40cm.


(2). Quốc Sử Qúan triều Nguyễn, Ðại Nam thực lục. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Sử học, Tập IV, Hà Nội, 1963, tr83.
(3), (4). Dương Kinh Quốc,Việt Nam những sự kiện lịch sử. Nxb Giáo dục. Hà Nội-1999, tr236. 


Theo tác giả, vào ngày 2/6/1897, Toàn quyền Ðông Dương Paul Doumer đã ra sắc lệnh quy định, kể từ ngày 1/1/1898, ở địa bàn Bắc Kỳ áp dụng cách tính 1 thước ta =0,40m (tức 40cm). Quy định này đã lấp bằng luôn khoảng cách giữa cây thước ta chính hiệu (tức thước mộc = 0,424m)cây thước đo ruộng (cây Ðiền xích = 047m) để chỉ còn một loại thước ta=0,40m. Chính vì vậy, một sào Bắc Bộ trước kia cũng như sào Trung Bộ, đều bằng 4970m2(tính khoanh vuông, mỗi bề là 150 thước) nhưng từ 1/1/1898 chỉ còn bằng 3600m2, trong khi Trung Bộ vẫn giữ nguyên cách tính cũ.

(5). Trong bài viết ấy chúng tôi đã công bố một phần kết quả phối hợp khảo sát toàn bộ các di tích kiến trúc cung đình Huế giữa đại học Waseda (Nhật Bản) và Trung tâm BTDTCÐ Huế từ năm 1994-1997, trong đó có cây thước mộc của triều Nguyễn.


(6). Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh (Chủ biên), Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển, Bản tiếng Hoa. Bắc Kinh. 1992. phần Công cụ chế tác, tr 92.

TÀI LIÊU THAM KHẢO:

Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918). Nxb Giáo dục. Hà Nội. 2001
Ðào Duy Anh, Hán Việt từ điển. Nxb Ðà Nẵng. 1993.
Hoàng Phê (Chủ Biên), Từ điển tiếng Việt. Nxb KHXH. Hà Nội, 1988.
Lê Vĩnh An, Công cụ chế tác nhà rường Huế. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2/2002.
Lê Thành Khôi,Tìm hiểu một số đơn vị đo lường ngày trước. Kỷ yếu Hội thảo phục hồi điện Cần Chánh. Trung tâm BTDTCÐ Huế & Ðại học Waseda xuất bản. Huế-Tokyo. 2000.
Nguyễn Ðình Ðầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn. Tập Th ừa Thiên. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Tập Biên Hòa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 1994.
Phan Thanh Hải, Những phát hiện mới về Hoàng thành và Tử Cấm thành Huế, Tạp chí Khảo Cổ học, số 1/1998.
Quốc Sử Qúan triều Nguyễn, Ðại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học. Nxb Sử học, Tập IV, Hà Nội. 1963
Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh (Chủ biên), Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển, Bản tiếng Hoa. Bắc Kinh. 1992
Thiều Chửu, Hán Việt tự điển. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 1990
Vĩnh Cao - Nguyễn Phố, Từ lâm Hán Việt từ điển. Nxb Thuận Hóa, Huế. 2001

Ths.Phan Thanh Hải

21 thg 8, 2013

Thước Lỗ Ban nào là đúng?

Theo tác giả Trần Văn Tam trong cuốn xây dựng nhà ở theo địa lý thiên văn dịch lý- Nhà xuất bản văn hoá thông tin năm 2000- trang 662)
- Loại 5: một thước lỗ ban bằng 410mm (Một số người dùng chương trình có gửi thêm tài liệu cho tôi về loại thước 410mm này, Tôi xin đưa thêm vào chương trình để các bạn dùng) Tôi có sưu tập, tổng hợp và gửi theo file tổng hợp nghiên cứu về thước Lỗ ban, các bạn có thể đọc và nghiên cứu thêm về các loại thước Lỗ ban.Dưới đây Tôi xin trình bày một số loại thước Lỗ ban hay được dùng (theo tác giả Trần Văn Tam): 

  a) Loại thước Lỗ Ban bằng 520mm Căn cứ "Địa lý toàn thư" của Lưu Bá Ôn Trung Quốc nói: Thước Lỗ Ban lấy 1 thước 2 Quan xích làm chuẩn. Quan xích ở đây là do Nhà nước qui định. Căn cứ tiêu chuẩn đo ruộng đất ở Miền trung thời phong kiến thì một sào Trung bộ bằng sấp sỉ 500m2. Một thước bằng 33.3333 m2 (500/15=33.3333)Và bằng một "ngũ" nằm (ngang) nhân với 7 "ngũ" chạy (dọc)Một thước Lỗ ban bằng 0.52m, một quan xích sẽ bằng: 0.52/1.2*1.0=0.43333mĐối chiếu lại với phép đo ruộng đất ở Trung bộ ta có:(0.433333 x 5) x (0.43333 x 5) x 7=33.33333m. 1 Ngũ 1ngũ x 7Vậy quan xích Trung bộ là 0.4333m. Thước Lỗ ban loại 52cm (bằng 1,2 quan xích).Thước Lỗ ban 52cm chia thành 8 cung (tấc) mỗi cung dài 6,5cm. Mỗi cung lại chia làm 5 độ, mỗi độ dài 1,3cm. Mỗi cung và mỗi độ được đánh tên (xem hình) Thước Lỗ Ban loại 520mm
Cách đo: Bắt đầu từ cung Quí nhân đến hết cung Tể tướng rồi tiếp tục từ cung Quí nhân. Điểm cuối cùng của kích thước được đo vào các cung Quí nhân, Thiên tài, Nhân lộc, Tể tướng là cát (tốt). Vào các cung Hiểm hoạ, Thiên tai, Cô quả, Thiên tác là hung (xấu). Tốt hay xấu (cát hay hung) chỉ tính cung (tấc) và chi tiết hơn là tính độ chứ không tính bao nhiêu thước. 

b) Loại thước 480mm 
Căn cứ tiêu chuẩn đo ruộng đất thời phong kiến Việt Nam mà đến nay vẫn dùng ở bắc bộ là môt “sào” bắc bộ bằng 360m2. Một sào có 15 thước, mỗi thước bằng 24m2 và bằng một ngũ nhân với 6 “ngũ” chạy. Như vậy mỗi ngũ bằng 2m. Mỗi “ngũ” là 5 “quan xích”.Mỗi “quan xích” = 2m/5 = 0,4m.0,4m là một quan xích ở bắc bộ.Vậy một thước Lỗ ban bằng 48cm = 480mm.(0,4*1,2=0,48m=480mm)Lấy một thước lỗ ban chia làm 8 phần đều nhau, tức là một thước có 8 tấc, mỗi tấc bằng 6cm. Chữ trên thước chỉ 8 tấc là: 1 là Tài, 2 là Bệnh, 3 là Lý, 4 là Nghĩa, 5 là Quan, 6 là Kiếp, 7 là Hại, 8 là Bổn. 8 tấc này còn biểu thị 7 ngôi sao trên chòm sao Bắc đẩu là Tham lang, Phá quân, Vũ khúc, Cự môn, Văn Khúc, Liêm trinh, Lộc tồn và Tả phụ.Cách đo: Bắt đầu từ cung Tài đến hết cung Bổn, lại tiếp từ đầu cung tài… Điểm cuối cùng của kích thước đo vào cung Tài, Lý, Nghĩa, bổn là tốt, vào các cung Bệnh, Quan, Kiếp, Hại là xấu. Tốt hay xấu chỉ tính tấc mà không tính bao nhiêu thước. Loại thước này dựa trên Thất tinh để xác định cát hung. 

c) Thước sưu tầm (3 loại thước này không tìm thấy cơ sở để xác định).
 + Loại thước 429mm (được dùng để đo mộc - đo đồ gỗ)Mỗi thước dài 429,3mm chia lầm 8 cung, 1 cung có 4 độ đo khởi đầu từ cung Tài. 
+ Loại thước 390mm (được dùng để đo thổ - đo đất)Mỗi thước dài 387,5mm chia lầm 10 cung, 1 cung có 4 độ đo khởi đầu từ cung Đinh. 
+ Loại thước 410mm (được khuyến cáo dùng để đo đồ gỗ)Mỗi thước dài 410mm chia làm 8 cung, mỗi cung có 4 độ, đo khởi đầu từ cung Tài. 
Lỗ Ban tương truyền là ông tổ của nghề mộc đã được hoá thân thành Thánh đã phát minh ra cây thước Lỗ Ban. Cây thước Lỗ Ban có rất nhiều thuyết khác nhau liên quan đến xuất xứ của nó. Chỉ biết rằng trong Phong Thuỷ thì nó được ứng dụng để đo chiều dài trong thiết kế nhà cửa và âm phần.
Hiện nay người ta thường sử dụng loại thước Lỗ Ban dài 43cm chia thành 8 cung bằng nhau :


Cung
Ý Nghĩa
Tài
Ứng với sao Tham Lang tức Sinh Khí - Tốt
Bệnh
Ứng với sao Phá Quân tức Tuyệt Mệnh - Xấu
Ly
Ứng với sao Vũ Khúc tức Phúc Đức - Tốt
Nghĩa
Ứng với sao Cự Môn tức Thiên Y - Tốt
Quan
Ứng với sao Văn Khúc tức Lục Sát - Xấu
Kiếp
Ứng với sao Liêm Trinh tức Ngũ Quỷ - Xấu
Hại
Ứng với sao Lộc Tồn tức Hoạ Hại - Xấu
Bổn
Ứng với sao Tả Phụ tức Phục Vị - Tốt

Đo chiều dài của nhà cửa, vật dụng mà rơi vào các cung Tài, Ly, Nghĩa, Bổn là tốt, các cung khác là xấu.
Ngoài ra còn một loại khác dài 51cm chia thành 8 cung bằng nhau như sau :

Cung
Ý Nghĩa
Quý Nhân
Hành Mộc – Tốt
Hiểm Hoạ
Hành Thổ - Xấu
Thiên Tai
Hành Thổ - Xấu
Thiên Tài
Hành Thuỷ - Tốt
Nhân Lộc
Hành Kim – Tốt
Cô Độc
Hành Hoả - Xấu
Thiên Tặc
Hành Hoả - Xấu
Tể Tướng
Hành Thổ - Tốt

Quý vị có thể sử dụng một trong hai loại trên để đo đạc và tính toán. Nếu cẩn thận có thể sử dụng cả hai loại thước trên.
Về tính khoa học của thước Lỗ Ban hiện có rất nhiều cách giải thích khác nhau, có thuyết cho rằng đó là sự trải dài của Bát Quái và việc sử dụng thước tuân theo Bát Quái và Ngũ Hành. Song theo khoa học thì ngay cả trong lòng đất cũng tồn tại những dao động với những tần số khác nhau, nhất là những dao động âm trong lòng đất vồn liên tục tồn tại. Vì vậy, nếu kích thước của nhà ở và các yếu tố trùng với bước sóng thì dễ gây ra cộng hưởng và làm giảm sự bền vững. Có thể, cây thước Lỗ Ban là sản phẩm của sự đúc kết kinh nghiệm trong xây dựng để tránh những sự cộng hưởng hoặc phần bụng sóng dao động mạnh, giảm thiểu được rủi ro, tăng tuổi thọ cho nhà ở và vật dụng.
(theo nicespaces vietnam)

20 thg 8, 2013

Bài thuốc y học cổ truyền trị bệnh tiểu ra máu

ST



Tiểu ra máu là một chứng do nhiều nguyên nhân bệnh ở đường tiết niệu gây ra như viêm đường tiết niệu, sỏi đường tiết niệu, lao thận, u bàng quang, u thận... được miêu tả trong phạm vi chứng ngũ lâm (huyết lâm) của y học cổ truyền. Nguyên nhân là do viêm nhiễm cấp và mạn tính đường tiết niệu, do sỏi đường tiết niệu và các nguyên nhân toàn thân khác. Sau đây là một số bài thuốc điều trị chứng này theo từng thể bệnh.
Tiểu ra máu do viêm nhiễm cấp tính đường tiết niệu,  viêm cầu thận cấp, viêm bàng quang cấp (y học cổ truyền gọi là thể tâm hỏa vọng động, nhiệt tích xuống hạ tiêu gây tiểu ra máu). Người bệnh có biểu hiện tiểu ra máu, miệng khát, sốt, mặt đỏ, ngủ ít, hay mê, mạch hồng sác. Phép chữa là thanh tâm hỏa, thanh nhiệt giải độc lương huyết chỉ huyết. Dùng một trong các bài:

Bồ công anh.
Bài 1:lá tre 16g, sinh địa 12g, cam thảo đất 12g, mộc hương 12g, cỏ nhọ nồi 16g, tam thất 4g, kim ngân 16g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2 - Tiểu kế ẩm tử:
sinh địa 20g, tiểu kế 12g, hoạt thạch 16g, mộc thông 12g, chích thảo 6g, bồ hoàng (sao) 12g, đạm trúc diệp 12g, ngẫu tiết 12g, đương quy 6g, chi tử 12g. Để thanh nhiệt giải độc gia kim ngân 12g, liên kiều 12g, bồ công anh 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Tiểu ra máu do viêm nhiễm mạn tính đường tiết niệu,
viêm bàng quang mạn, lao thận (y học cổ truyền gọi là thể âm hư hỏa động). Người bệnh có biểu hiện nước tiểu ít, đỏ, khát nước, họng khô, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác. Phép chữa là tư âm thanh nhiệt, chỉ huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1:
sinh địa 12g, thạch hộc 12g, sa sâm 12g, mạch môn 12g, a giao 8g, kỷ tử 12g, cỏ nhọ nồi 16g, rễ cỏ tranh 12g, trắc bá diệp 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2 - Đại bổ âm hoàn gia giảm:
hoàng bá 12g, tri mẫu 8g, thục địa 16g, quy bản 12g, cỏ nhọ nồi 12g, rễ cỏ tranh 12g, chi tử (sao đen) 8g. Sắc uống ngày 1 thang.


 Vị thuốc chi tử.
Tiểu ra máu do sỏi đường tiết niệu (y học cổ truyền gọi là thể huyết ứ). Phép chữa là hoạt huyết chỉ huyết. Dùng bài thuốc: đan sâm 12g, ngưu tất 12g, ích mẫu 12g, uất kim 12g, chỉ thực 6g, cỏ nhọ nồi 16g, huyết dụ 12g, bách thảo sương 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Tiểu ra máu kéo dài do các nguyên nhân toàn thân khác
(y học cổ truyền cho là do tỳ hư, không thống huyết). Người bệnh có biểu hiện tiểu tiện nhiều lần, có lẫn máu, ăn không ngon, mệt mỏi, sắc mặt vàng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi bẩn, mạch hư nhược. Phép chữa là kiện tỳ chỉ huyết. Dùng bài thuốc: hoài sơn 12g, đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, thạch hộc 12g, thục địa 12g, cỏ nhọ nồi 16g, trắc bá diệp 12g, ngải cứu 12g. Sắc uống ngày 1 thang.        
   Lương y  Thái Hòe