31 thg 8, 2013

Chữ Phúc

ST

Mạn bàn về chữ “Phúc”

Trong quan niệm cổ truyền của gia đình người Việt, chữ “Phúc” có vị trí quan trọng hàng đầu. "Nhà có phúc" là ước vọng, là niềm vinh dự của người Việt Nam. Vì lẽ đó, cứ Tết đến xuân về, người ta thường viết chữ “phúc” trên một tờ giấy đỏ vuông dán ngoài cửa và xem như là một lá bùa chúc tụng điều may mắn trong năm.

Uớc vọng đầu năm của hầu hết người dân Việt không thể thiếu chữ "Phúc". Cụ Nguyễn Công Trứ có đôi câu đối vừa hóm hỉnh nhưng không kém phần tinh tế và sâu sắc của hương vị ngày xuân: Chiều ba mươi, nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng "Bần" ra cửa/ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông "Phúc" vào nhà. Lại nữa, có một câu chuyện trong dân gian kể rằng: đời vua Gia Long, có người lập nhiều công trạng, nhà vua hỏi muốn được thưởng gì thì người ấy thưa rằng: "Hạ thần chỉ xin được một chữ "Phúc" mà thôi".
Vua cười đáp rằng: "Tiền bạc, chức tước thì ta có thể ban, chứ Phúc thì chỉ có trời ban mà thôi, cả dòng họ ta chỉ nhờ có chữ Phúc mà vinh hiển nhiều đời". Thật vậy, dòng họ nhà Nguyễn đã lót chữ Phúc vào tên của mình (vua Gia Long là Nguyễn Phúc Ánh). Trên khắp nước Việt Nam, nhiều địa danh đã chọn chữ "Phúc": tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phúc Thọ (Hà Nội)...
Chữ "Phúc" là từ Hán Việt, người miền Nam đọc là "phước". Chữ "Phúc" trong giáp cốt văn là hình tượng hai bàn tay bưng hũ rượu đứng trước bàn thờ. Như vậy, chữ "Phúc" vốn được xem là điều tốt lành do cầu cúng mà có được.
Theo đó, "Phúc" có nghĩa là "thuận lợi", "đồng thuận". Thuận có nghĩa là từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài đều thông suốt, không có gì trở ngại. Trên thuận trời đất, dưới thuận vua tôi, dưới nữa thuận cha mẹ, con cái. Đời sống tinh thần bên trong và đời sống vật chất bên ngoài đều thuận lợi không có gì trắc trở, như vậy gọi là thuận, là Phúc. Một điều thật thú vị là câu chúc Tết của người phương Tây thường đề cập đến hạnh Phúc, sức khỏe và thành đạt, đứng ở góc độ nào đó có sự tương đồng như Phúc, Lộc, Thọ mà ở phương Đông người ta tâm niệm.

Cả Âu lẫn Á đều đặt "Phúc" lên vị trí hàng đầu, nhưng nếu tìm hiểu kỹ thêm một chút mới thấy chữ "Phúc" của phương Đông rất rộng lớn, mênh mông và tinh tế. Người Trung Hoa chơi chữ bằng cách vẽ hai con dơi đâu cánh lại, ngụ ý là trùng phúc, họ còn vẽ thêm một lúc năm con dơi biểu tượng cho ngũ phúc (ngũ phúc lâm môn) mà sách Hồng Phạm viết: "Ngũ phúc, nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang minh, tứ viết Du hảo đức, ngũ viết Khảo chung mệnh" (Năm phúc: sống thọ, giàu có, bình an, đức tốt, chết vào tuổi già).
Theo Từ điển Khai Trí Tiến Đức thì "Phúc" là điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong tâm thức của người Việt, từ lâu đã quan niệm phúc bao giờ cũng đi đôi với đức. Thuật ngữ "Phúc đức" luôn gắn liền nhau. Chính điều này đã làm sâu sắc thêm triết lý nhân duyên của nhà Phật và đem lại màu sắc tích cực cho hai chữ họa phúc (Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai). Phúc dày hay mỏng cũng do chính con người can dự quyết định.
Chữ Phúc chính là một ân huệ mà con người tự tạo ra qua những hành động tốt của mình. Nó là những hạt giống tốt được tay người tự gieo trên những mảnh đất mà ta thường gọi là phúc điền (ruộng phước). Do quan niệm họa phúc ở đời là sợi dây gieo nhân gặt quả, nên người Việt Nam chú trọng đến việc "làm ơn, làm phước".
Hơn thế nữa, mỗi hành động, việc làm của chúng ta không những ảnh hưởng đến bản thân ta mà còn lưu lại kết quả cho thế hệ sau. Nhà có phúc là nhà có được cuộc sống bình yên thanh thản, đặc biệt là có hậu vận tốt. Muốn được đức phải có phúc và ngược lại đức sẽ đem lại phúc, đó là quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,... Ví như đức của Nho giáo là ngũ thường, đức của Phật giáo là ngũ giới (năm điều cấm), đức của Kitô giáo là 10 điều răn của Chúa... Dù văn chương chữ nghĩa có khác nhau, nhưng chung quy về đức ở mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có chung quan niệm nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi người.
Ngày nay, khi kinh tế có chiều khởi sắc, dường như người ta ít đặt, hay lãng quên chữ "Phúc" trong mối quan hệ với "đức" hay "thiện" (phúc đức, phúc thiện) mà thường đặt "Phúc" trong mối quan hệ với chữ "đạt" (thành đạt) hay "lợi" (phúc đạt, phúc lợi).
Ngạn ngữ Lào có câu: "Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo đức". Hi vọng rằng dù lịch sử có thay đổi như thế nào đi nữa thì quan niệm về chữ "Phúc" của dân tộc, của mỗi gia đình, của mỗi người chúng ta sẽ mãi mãi là "mã di truyền" tốt đẹp trong đời sống văn hóa người Việt.

Chữ Phúc
Lưu Nhơn Nghĩa

Được bạn hiền Phạm quốc Bảo tặng cuốn sách " Dấu vết Văn hóa Mỹ ", tập 2 , trang 84-86, bài " Chữ Phúc treo ngược ". Xin kể lại sơ lược câu chuyện trong quán Tàu . Ba người đàn ông Việt, tuổi trên 50 (tính từ 1995 ) ngồi ăn bàn chuyện chữ nghiã.

" Này, nhìn thử ba chữ treo hàng dọc trên tường kia...Đúng đấy ,thấy gì không ?

Ba chữ Tàu treo một hàng dọc như thế, loại dốt như tôi cũng đoán được là Phúc Lộc Thọ chứ gì? Phải không anh Tân? Sao lại cười, tôi đoán sai à?

Cậu đoán đúng, tôi cười vì anh Việt đã nhìn ra chữ " Phúc lộn " ngược.

Lộn ngược ?...Để tôi xem có còn nhớ chữ Tàu nữa không nha anh Tân. Chữ Phúc viết theo Hán văn là từ trái sang phải và từ trên xuống dưới thì gồm bộ " Kỳ "chỉ về thần thánh, trên cùng là chữ nhứt là một, giữa chữ khẩu là miệng, dưới là chữ điền là ruộng. Phúc đạy là Hạnh Phúc, chứ không phải chữ Phúc trong nghiã bạn tâm phúc.

   -Phúc đó là bụng, gồm có bộ " nhục " ( thịt ) và chữ " phục " là trở về. Bộ " nhục " thì khỏi nói, phải nhớ. Còn chữ " phục " thì trên là chữ " nhân "( người ), giữa chữ " nhựt " ( mặt trời ) và dưới là chữ " chỉ " (đi đứng ). Để dễ nhớ, người ta thường diễn tả chữ " phục " là con người ở thôn quê khi mặt trời lên thì ra đồng làm việc khi mặt trời lặn thì đi về nhà. Đúng không anh Tân ?

Anh dân kinh tế mà chữ Hán tài đấy.

   -Thế chữ Phúc tiệm nầy chiết tự ra sao để dễ nhớ, anh biết chứ ?

Ngoài bộ " kỳ " ý nói do thiêng liêng hoặc nhờ may mắn mà có. Chữ Phúc tính từ dưới lên trên có nghiã la ruộng mênh mông. Ruộng ( điền ) nhìn xa chỉ thấy 4 cạnh thôi, ( khẩu ), xa nữa chỉ thấy một cạnh ( nhất ) và xa nữa thì không còn bờ giới hạn.

Hay thật, chữ Phúc đây họ treo ngược thế kia, anh thấy sao ?

Có thể họ " vô tình đóng đinh vào tường rồi nó tự lộn ngược lúc nào không biết để sửa lại. Nhưng đặc biệt giới buôn bán người Trung Hoa cũng có khi cố ý treo ngược chữ Phúc là để tiền bạc vào trong tay họ mà không trở ra được nữa, họ tin tưởng như vậy "

Cái ý ấy lạ và tuyệt thât.....

Hai anh giỏi chữ nghiã, luận nghe sướng tai quá.! Riêng tôi dốt và đơn giản thì cho rằng Phúc là Phúc Đức hay Phúc là cái bụng khác nhau ở chữ với nghiã gì đó là chuyện khác, còn hai chữ Phúc liên quan chặt chẻ với nhau cho con người trước hết cái đã. Phúc đức hay tiền bạc, lý tưởng hay âm mưu gì đó không cần biết, đầu tiên phải cho nó no cái bụng trước tiên, còn mọi sự mọi việc tính sau.

Đó là câu chuyện của ba ông khách quán mì. Để học cho dễ nhớ thì đúng hơn, ông giảng chữ " phúc " ( bụng ) cũng trôi, nhưng ông giảng chữ " phục " gồm chữ nhục ( thịt ) thì đúng, còn chữ bên phải không có nghiã, chỉ mượn âm ( hài thanh, một phần của chữ " phục ", trở lại, chữ " phục ", trở lại gồm bộ " sách ", bên phải trên là chữ " nhơn ", người, chữ " nhựt ", mặt trời, cuối cùng là chữ " truy ", đến sau, chứ không phải nghĩa là " đi đứng ' như ông khách nói. Điều nầy không quan trọng, xưa, học trò chữ Nho phải tìm cách chiết tự để dễ nhớ, vì chữ Nho không thể đáng vần. Chữ Đức chiết tự thành " chèo bẻo vắt vẻo cành tre, Thập trên, tứ dưới, nhứt đè chữ tâm. Chữ Hiếu chiết tự thành " Đất nầy là đất hồ ao ( chữ thổ ), Ai cắm cây sào mà lại cấm xiên, Con ai mà đứng không yên, Đứng thì không vững dựa nghiêng cây sào.

Ông khách giảng chữ " phúc " cũng trôi, nhưng người Tàu chiết tự, giảng khác. Chữ " phúc " gồm bộ " kỳ "( thiêng liêng ), kế bên là chữ " nhứt" ( một ), bên trên chữ "khẩu" ( miệng ), chót là chữ " điền " ( ruộng ). Người được thần thánh phù trì, lại chỉ có một miệng ăn ( ít nhân khẩu ), có ruộng, vậy là có phúc, hay phước. Hai chữ phúc ( bụng ) và " phúc " ( phúc đức ) giảng ra đều hợp lý.

May quá, gỏ tới đây, thằng con tôi dẫn về cô bạn gái gốc Đài Loan, biết chữ Hoa. Cô diễn đạt theo tinh thần Hoa ngữ về chữ " phúc " như sau.

Chữ " phúc ", bên là bộ " kỳ ", cúng bái, cầu xin. Cầu xin cho gia đình có ruộng . Chữ " nhứt khẩu tử " nghiã là gia đình," nhứt khẩu " là gia đình, chứ không phải là một miệng ăn. Cầu xin cho gia đình có ruộng, no đủ. Lại một lối giải thích khác.

Còn chữ " phúc " treo ngược, ông khách cho rằng chủ tiệm đóng đinh vào tường rồi nó tự lộn ngược quên không sửa lại. Ông còn giảng là người Tàu buôn bán có khi cố ý treo ngược chữ " phúc " để tiền bạc không trở ra được nữa...Đây là phần ông chế ra thêm thắt. Xong rồi ba ông khen nhau hay tuyệt, độc giả Việt Nam đọc sao hiểu vậy .

Dân Quảng Châu cố ý treo ngược chữ " phúc ", theo thổ ngữ Quảng Châu, âm " đảo " ( đảo ngược ) gần âm " đáo " ( đến ), họ treo ngược chữ " phúc " , đọc thành " phúc đảo "," phúc đảo " gần âm " phúc đáo " nghiã là " phúc tới ", cầu cho phúc tới .Người sử dụng thổ ngữ Quảng Châu, thủ đô tỉnh Quảng Đông, tiếng nói thông dụng Chợ Lớn, mới dùng chữ Phúc đảo ngược thôi.

Luôn tiện nói tào lao cuối năm. Dân Quảng Châu rất sợ số 4, âm " tứ " trong thổ ngữ Quảng Châu gần với âm " tử " ( chết ), nhiều tiệm bán điểm tâm, không có bàn thứ 14, âm thập tử, bàn 13 tới bàn 15. Họ ưa số 8, gần âm " phát ", phát đạt, họ hay mua bảng số xe 18, 88..

.Dân gốc Triều Châu, một Phủ trong tỉnh Quảng Đông chọn số 4 là số hên," tứ ", số 4 trong thổ âm Triều Châu gần với âm chữ " thế ", đời . 44 đọc theo thổ âm Quảng Châu là " tử tử ", chết chết, trong thổ âm Triều Châu, " tứ tứ " đọc thành đời đời . Chàng rể mang tiền " xởi miềng chí ", tiền rửa mặt hay tiền rửa đít ( xin lổi, người ta dịch như vậy ) cho ông già vợ ngày đám cưới tùy, miễn là số 4, như $44 hay $444, $4444....Ông già vợ biết điều, lấy $4 tượng trưng, trả lại phần kia.

Dân Trung Hoa thích số 9, cửu , đồng âm chữ cửu, mãi mãi. Dân Nhựt sợ số 9, roku, khổ lực, dân Âu Mỹ sợ số 13 .

Luôn tiện nói cho hết. Bài thơ " Rắn đầu biếng học " của Lê quí Đôn, trong Quốc văn Giáo khoa thư, âm ra chữ Quốc ngữ có câu, " Từ nay Châu Lỗ xin siêng học. Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia". Đúng ra là Trâu Lỗ. Nước Trâu thuộc Sơn Đông là quê Mạnh Tử, nước Lỗ quê Đức Khổng Tử. Người Bắc soạn, âm " tr " thành " ch", " Trâu " thành " " Châu ", cũng có người họ Trâu, khác với họ Châu.

Cũng như trường hợp " tiếng bom Sa Điện " của Phạm Hồng Thái, ngày nay, tìm đến nơi mới biết địa danh là Sa Diện, lổi ấn loát, in sai rồi để nguyên, đời sau cứ tiếp tục đọc, lấy đó làm tài liệu viết tiếp.

Cuối năm nói chuyện trà dư tữu hậu. Ông Phạm quốc Bảo ơi, làm ơn tra tự điển hay hỏi người chủ tiệm về chữ " Phúc " treo ngược.