2 thg 7, 2013

Thập can chiết tự (chép trong Ngọc hạp chánh tông)

Thập can chiết tự (chép trong Ngọc hạp chánh tông)

1. Chữ Giáp
(Giáp Tí, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ,Giáp Thìn, Giáp Dần)
Nhân sanh Giáp tự biến thành Điền
Phú quý vinh hoa thực lộc thiên
Phụ mẫu huynh đệ tha biệt sở
Phu thê nhị đại hậu song toàn
****
Chữ Giáp có số đất điền
Bằng khôngcũng hưởng lộc tài tự nhiên
Anh em nào có cậy trông
Tha hương lập nghiệp mà nên cửa nhà
Vợ chồng thay đổi nhiều lần
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng
Cho hay duyên số ở trời
Khá làm âm đức, phước đành hậu lai
Số này tuổi nhỏ tay không
Lớn lên có của, vợ chồng làm ra

2. Chữ Ất
(Ất Hợi,Ất Dậu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mẹo, Ất Sửu)
Nhân sanh Ất tự biến thành Vong
Gia thất, tiền tài tất thị không
Lục sức tị phiền du vong bại
Phu thê biến cải định nan phùng
****
Người sanh chữ Ất gian nan
Lắm khi dào dạt, lắm lần tay không
Nuôi vật, vật cũng tang thương
Ở cùng bầu bạn chẳng phần đặng yên
Vợ chồng thay đổi lương duyên
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng
Số này sớm cách quê hương
Ra ngoài lập nghiệp mới nên cửa nhà
Cho hay số ở Thiên Tào
Người hiền lận đận, tuổi già nhờ con

3. Chữ Bính
(Bính Dần, Bính Tý, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thìn)
Nhân sanh Bính tự biến thành Tù
Lão thiểu vô an hạn bất chu
Sở hữu ngoại nhân y hữu định
Thân cư quan quý quá niên trường

****
Chữ Bính số cũng quạnh hiu
Người sanh chữ ấy trọn đời âu lo
Tuổi nhỏ bịnh hoạn ốm đau
Lớn tuổi cô quạnh một mình thảm thương
Số này lập nghiệp tha phương
Có chí tu niệm kính tin Phật Trời
Nếu mà giữ dạ hiền lương
Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên
Những người có chí thiện nhân
Có khi lao khổ có ngày thảnh thơi.

4. Chữ Đinh
(Đinh Mẹo, Đinh Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi,Đinh Tỵ)
Nhân sanh Đinh tự biến thành Du
Gia thất tiền tài thường đảo lộn
Thiếu niên lao khổ uổng công phu
Trung vận trùng lai phú đắc vinh
****
Chữ Đinh biến thành chữ Du
Số nhỏ bệnh tật ốm đau thường thường
Lắm lần tai nạn thảm thương
Nhờ có hồng phước Phật Trời chở che
Lớn lên thông tuệ khác thường
Có quyền có chức có tài tự nhiên
Có chí sáng tác mọi ngành
Có tài có đức cầm quyền điểm binh
Xét xem qua số nợ duyên
Trai đôi ba vợ, gái thì truân chuyên
Nết na đức hạnh dung hoà
Nhưng mà cũng chịu vui chiều buồn mai
Cho hay căn số tự Trời
Duyên đầu lỡ dở hiệp hoà duyên sau
Có căn tích thiện tu nhân
Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no

5. Chữ Mậu

(Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ, Mậu Dần)
Nhân sanh Mậu tự biến thành Quả
Phiêu phất tha phương định thất gia
Cô độc một thân không chỗ định
Hành thân phản mại lạc ngâm nga
****
Chữ Mậu cô quạnh tha phương
Lìa nhà xa xứ, lắm lần gian nan
Anh em ruột thịt chẳng hoà
Tha phương bầu bạn chỉ nhờ người dưng
Gái thì lận đận lương duyên
Khi thì vui vẻ khi tan nát lòng
Đôi lần mới đặng thành công
Tuổi trẻ lao khổ, tuổi già nhờ con
Tánh hay tích thiện từ hoà
Tin Trời, tưởng Phật lòng hàng ái tha
Những ai có chí tu nhơn
Tuy rằng hoạn nạn, phước còn hậu lai

6. Chữ Kỷ
(Kỷ Tỵ, Kỷ Mẹo, Kỷ Sửu, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi)
Nhân sanh Kỷ tự biến thành Ân
Gia thất tiền tài mạng giaù sang
Gia sự đa tài, sanh con thảo
Hữu thời tấn tới tợ phi vân
****
Chữ Kỷ biến thành chữ Ân
Tánh thì mau mắn làm ơn cho người
Tấm lòng trung trực vẹn bề
Làm ơn nên oán, nhiều lần tân toan
Của, con có sẵn tuổi già
Tuổi trẻ lao khổ tha phương lập thành
Nhiều khi tán tụ như sương
Khi ăn chẳng hết,khi thì tay không
Nợ duyên tan vỡ buồn lòng
Đôi lần ly hiệp mới nên gia đình
Khá nên tích thiện tu thân
Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh

7. Chữ Canh

(Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Dần, Canh Tý, Canh Tuất, Canh Thân)
Nhân sanh Canh tự biến thành Cô
Số ấn công hầu lưu đất khách
Gia thất gầy nên thừa tổ đức
Phước tài tái tận mãn vinh hoa
****
Nhân sanh Canh tự biến thành Cô
Số ấn công hầu nên danh phận
Bằng không thì cũng lắm nghề khéo thay
Vợ chồng cách trở sơn xuyên
Đôi lần ly hiệp mới nên cửa nhà
Gái thì hiu quạnh muộn màng
Bằng không thì cũng đôi lần mới nên
Số này tu niệm thì hay
Hậu lai sẽ hưởng phước dày lộc cao
Có đâu thiên vị người nào
Số cao thì hưởng lộc tài tự nhiên

8. Chữ Tân
(Tân Mùi, Tân Tỵ,Tân Mẹo, Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu)
Nhân sanh Tân tự biến thành Tan
Tánh khí hiền lương lập nghiệp nan
Phụ phụ nhất tâm lưỡng nhân thú
Bằng hữu cự tộc rất vinh quang
****
Chữ Tân biến thành chữ Tan
Gia đình dời đổi đắng cay muôn vàn
Một thân tự lập mà nên
Tha phương lắm độ phong sương hải tần
Lương duyên thay đổi đôi lần
Tuổi già phú túc miên miên cửu trường
Những người có chí thiện nhân
Trời dành hậu quả hưởng nhờ phước dư

9. Chữ Nhâm
(Nhâm Thân, Nhâm Ngọ,Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Tuất)
Nhân sanh Nhâm tự biến thành Vương
Thân thọ mạng trường thiên số chung
Tị hiềm hung đồ tha biệt sở
Thân cư quan quý hậu an khương
****
Chữ Nhâm biến thành chữ Vương
Thân thì thọ số, mạng thì vinh quang
Có lần cách trở gia hương
Xứ xa lập nghiệp, vinh quang ai bì
Số này nghiệp tổ không nhờ
Thân lưu đất khách lập nên cơ đồ
Trai thì vợ đôi,vợ ba
Gái thì số cũng đôi lần mới nên
Khá nên tích đức thiện nhơn
Hậu lai sẽ hưởng phước Trời ấm no


10. Chữ Quý
(Quý Dậu, Quý sửu, Quý Tỵ, Quý Hợi, Quý Mùi, Quý Mẹo)
Nhân sanh Quý tự biến thành Thiên
Tiền hậu phu thê y lộc nhiên
Chức phận văn chương đa phú quý
Trí tuệ vinh hoa hưởng thọ trường
****
Chữ Quý biến thành chữ Thiên
Trai thời chức phận, gái thời chính chuyên
Số này cũng có đất điền
Gia môn phú túc thọ trường bền lâu
Vợ chồng hoà thuận đủ điều
Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa
Nếu mà tích thiện, tu thêm
Ngày sau con cháu miên miên cửu trường

Khám phá bài thuốc chữa bệnh xương khớp 1000 năm.

ST

Bài thuốc “Độc hoạt ký sinh thang” có từ đời Đường cách đây hơn 1000 năm, gồm tập hợp các vị thuốc có nguồn gốc thiên nhiên với tác dụng bổ can thận để bổ dưỡng xương khớp nhằm phòng và trị bệnh xương khớp, vì theo Đông y, can chủ cân, thận chủ cốt tủy.


Bệnh xương khớp cần điều trị kịp thời tránh những biến chứng sau này
Tinh hoa Dưỡng Cốt được bào chế từ bài “Độc hoạt ký sinh thang”, hơn nữa Tinh Hoa Dưỡng Cốt còn kết hợp Cao ban long cùng với Canxi và Vitamin D3 - là những thành phần rất quan trọng cho sự điều hòa, cân đối của xương và tăng dịch nhờn cho khớp.

Độc hoạt Radix Angelicae pubescentis
Nhục quế Cortex Cinnamomi
Phòng phong Radix Ledebouriellae seseloidis
Đương quy Radix Angelicae sinensis
Tế tân Herba Asari
Xuyên khung Rhizoma Ligustici wallichii
Tần giao Radix Gentianae macrophyllae
Tang ký sinh Herba Loranthi
Can địa hoàng Radix Rehmanniae glutinosae
Đỗ trọng Cortex Eucommiae
Nhân sâm Radix Ginseng
Ngưu tất Radix Achyranthis bidentatae
Phục linh Poria
Cam thảo Radix Glycyrrhiza
Hãy xem tâm sự của anh Trần Văn Hà ở tổ 41, phường 12, quận 3, TP Hồ Chí Minh. Anh cho biết, anh và gia đình rất vui vì cụ thân sinh của anh năm nay trên 80 tuổi, một thời gian dài không đi lại được do thoát vị đĩa đệm cột sống và loãng xương nặng, sau khi sử dụng sản phẩm Tinh Hoa 6 tháng cụ đã đi lại bình thường. Anh Hà cho biết, con cháu rất quan tâm đến cụ, đưa cụ đi khám và điều trị nhiều nơi, tốn khá nhiều tiền mà không khỏi, vô tình anh đọc được thông tin về Y Dược Tinh Hoa, ở đây anh nhận thấy các thông tin có tính chuyên môn cao, những bệnh nhân khỏi bệnh đều là người thực việc thực, nên anh đã quyết định mua thuốc Tinh Hoa điều trị cho cụ. Anh Hà cho biết thêm, anh cũng muốn giúp đỡ những bệnh nhân khác bằng cách chia sẻ kinh nghiệm điều trị của cụ cho mọi người qua số điện thoại 01665165274, bởi từ thực tế của cụ nhà anh, để có được nơi tin cậy chữa bệnh là điều rất quan trọng.

Công ty Y Dược Tinh Hoa LD Hàn Việt sử dụng công nghệ bào chế hiện đại dạng viên nang nên việc sử dụng “Tinh hoa Dưỡng cốt” rất dễ dàng. Mua “Tinh hoa Dưỡng cốt” cũng thuận lợi vì đã có bán ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Xem địa chỉ mua “Tinh hoa Dưỡng cốt” tại đây .
Hoặc tại website: yduoctinhhoa.com

Bài thuốc chữa bệnh đau lưng, giải độc từ đậu đen

ST


Từ rất lâu, đậu đen là một trong những loại ngũ cốc rất thông dụng với người dân Việt Nam qua các món ăn ngon, dân dã như xôi, chè... Với nhiều người, đậu đen không chỉ  là thực phẩm mà còn có nhiều công dụng phòng, chữa bệnh rất hiệu quả.
Theo y học hiện đại, đậu đen có glucid 53%, protein 24%, lipid 1,7%, các vitamin A, B1, B2, PP, C; giàu acid amin: lysin, tryptophan, phenylalanin, threonin, valin, leucin, isoleusin, arginin, histidin; các nguyên tố vô cơ: Ca, P, Fe… Theo y học cổ truyền, đậu đen là một loại dược liệu có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ can thận, bổ huyết, trừ phong, thanh thấp nhiệt, hạ khí, lợi tiểu, giải độc, tiêu khát.

Nguồn cung cấp dinh dưỡng và vitamin đa dạng

Thực phẩm giàu chất xơ: trong số những loại thực phẩm giàu chất xơ thì đậu đen được xem là “ứng cử viên” đầu bảng, rất có ích cho quá trình chuyển hóa glucose ở bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, bằng chứng sau khi ăn xong không hề xuất hiện tình trạng tăng đường huyết. Chất xơ và một số chất khác có trong đậu đen ngăn chặn lượng đường trong máu tăng đột biến sau bữa ăn nên chúng rất thích hợp với người bị bệnh đái tháo đường. Do có chứa các chất xơ không hòa tan nên đậu đen có tác dụng giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh táo bón, rối loạn tiêu hóa.
Đậu đen chữa đau lưng, giải độc 1


Giàu chất chống oxy hóa: đậu đen là thực phẩm rất giàu chất chống oxy hóa, isoflavone, anthocyanidin giống như có trong nho, quả mâm xôi, dâu tây… nhưng cao gấp 10 lần.

Giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch: người ta nhận thấy những người ăn nhiều đậu đen, rau xanh, ngũ cốc là nhóm người giảm được tới 82% nguy cơ mắc bệnh tim mạch, so với nhóm người ăn ít nhóm thực phẩm nói trên, đặc biệt là thực phẩm họ đậu, lý do là đậu đen có chứa nhiều chất xơ. Lợi thế của đậu đen là cung cấp chất xơ, folate và magie giúp làm giảm hormocystein, một loại acid amino hay còn gọi là sản phẩm trung gian không có lợi cho quá trình chuyển hóa và một khi hormocystein tăng thì rủi ro mắc bệnh tim, đột quỵ là rất lớn.

Tăng cường sắt và mangan cho cơ thể: đậu đen có tác dụng rất tích cực trong việc làm tăng năng lượng và hồi phục hàm lượng sắt cho cơ thể và rất hữu ích cho nhóm người bị mất máu bởi chấn thương, hoặc cho phụ nữ giai đoạn hành kinh cũng như cho nhóm người tuổi vị thành niên đang trong giai đoạn phát triển. Mangan, có trong đậu đen được xem là yếu tố vô cùng quan trọng giúp cơ thể tạo năng lượng và chống lại quá trình oxy hóa do các gốc tự do gây nên. Một bát nhỏ đậu đen có thể cung cấp tới 38% nhu cầu mangan cho cơ thể mỗi ngày.

Nguồn protein: một bát nhỏ đậu đen cung cấp khoảng 15,2g protein (tương đương 30,5% nhu cầu protein và 74,8% nhu cầu chất xơ cho cơ thể mỗi ngày), với tổng lượng calo chỉ có 227g đặc biệt hoàn toàn không có chứa mỡ.

Nguồn cung cấp vitamin đa dạng cho cơ thể:

- Vitamin A: được dùng cho trẻ em chậm lớn, mắt bệnh nhiễm khuẩn hô hấp, quáng gà, khô mắt, rối loạn nhìn màu mắt, bệnh vảy cá, bệnh trứng cá, chứng tóc khô dễ gãy, móng tay, móng chân bị biến đổi, hội chứng tiền kinh, rối loạn mãn kinh, xơ teo âm hộ, chứng mất khứu giác, viêm mũi họng mãn, điếc do nhiễm độc, ù tai, nhiễm khuẩn tiêu hóa, có lợi cho người thiếu hụt viatmin A như người vừa ốm dậy, phụ nữ cho con bú, cường giáp…

- Vitamin B1: có lợi cho người bị tê phù, viêm đau dây thần kinh, suy nhược cơ thể…

- Vitamin B2: có lợi trong rối loạn hấp thu, rối loạn thị giác, trẻ em chậm lớn, thiếu máu, viêm loét da, niêm mạc như loét lưỡi, viêm kết mạc, viêm mống mắt, viêm loét giác mạc...

- Vitamin C: phòng ngừa bệnh Scorbut. Phòng ngừa thiếu hụt vitamin C do chế độ ăn mất cân bằng, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trong các bệnh nhiễm trùng, cảm cúm thời kỳ dưỡng bệnh…

Một số bài thuốc chữa bệnh bằng đậu đen

Chữa đau bụng dữ dội, chưa rõ nguyên nhân: đậu đen 100g, sao cháy, sắc lấy nước đặc cho thêm rượu, uống nóng 1 lần. Cơn đau giảm nhanh, nhưng cũng cần đưa bệnh nhân đi khám ngay lập tức ở bệnh viện để có chẩn đoán và xử lý kịp thời.

Chữa lưng đau ê ẩm, cứng đờ, cử động khó: đậu đen: 300g sao vàng, 300g nấu chín nhừ, 300g cho vào chõ đồ chín. Trộn đều ba loại trên cho vào 2 lít rượu chưng cách thủy 30 phút, sau đó ngâm tiếp 7 ngày, mỗi ngày uống 1 chén nhỏ vào bữa ăn (tổng lượng 100ml/ ngày). Ngoài ra có thể dùng rượu cho thêm ít gừng tươi xào nóng, xoa bóp lưng rất hiệu nghiệm.

Chữa đái rắt, đái buốt, tiểu ít: đậu đen 15g, hạt sen 15g, rau má, hạt mã đề vừa đủ, tất cả đem sắc đặc uống thay nước chè. Uống 5 - 7 ngày.

Chữa đau nhức ở các khớp xương hoặc ngộ độc rượu lâu ngày: lấy một quả dừa xiêm, vạt đầu, rồi bỏ 20g đậu đen đã rửa sạch vào quả dừa, đậy nắp dừa lại sau đó đem chưng cách thủy khoảng 3 - 4 giờ cho đậu nhừ rồi đem ra uống nước, ăn cái, mỗi tuần chỉ cần ăn 1 lần hoặc ăn 1 - 2 lần trong tháng.

Cháo thanh nhiệt giải độc dùng trong mùa nóng: đậu đen 50g, lá sen 1 lá, gạo tẻ 50g. cách chế biến: lá sen lấy loại lá bánh tẻ, loại bỏ tạp chất thái nhỏ đem sắc 15 - 20 phút, lọc lấy nước bỏ bã. gạo tẻ và đậu đen loại bỏ tạp chất, vo qua, cho vào nồi rồi cho nước sắc lá sen vào thêm nước cho đủ, đem ninh nhừ thành cháo. nêm gia vị vừa đủ bắc ra ăn nguội trong ngày. có thể ăn thường xuyên trong mùa hè. thích hợp cho tất cả mọi lứa tuổi, nhất là với người phải làm việc trong môi trường nắng nóng, người háo khát, người can thận âm hư gồm: tăng huyết áp, phụ nữ tiền mãn kinh, rôm sảy, ban ngứa, suy nhược cơ thể…



BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Thuốc nam trị thấp khớp

ST

Bệnh thấp khớp y học cổ truyền gọi là "chứng tý" hiện nay là một loại bệnh rất hay gặp, biểu hiện chủ yếu của bệnh này là đau nhức sưng tấy hoặc nóng đỏ ở các khớp xương hay cơ gân; nhiều chỗ hay một chỗ, có thể kèm tê dại nặng nề, bệnh tình thường liên miên dai dẳng, khi khí hậu thay đổi thường phát nặng hơn.
 Viêm khớp gối.
Bệnh thấp khớp cấp tính nhiều khi có biến chứng tim, cần kết hợp với y học hiện đại để theo dõi và điều trị. Khác với bệnh phong, hàn và thấp đơn thuần, đặc điểm của bệnh thấp khớp là đủ cả 3 khí phong, hàn và thấp kết hợp lại thành một bệnh, cho nên người xưa biện chứng nhận xét trong 3 khí, khí nào nhiều hơn, để chia ra 3 loại mà điều trị, như:
- Bệnh di chuyển từ nơi này qua nơi khác, là do phong khí nhiều, nên gọi là phong tý (hành tý).
- Đau nhức kịch liệt và liên tục là do hàn khí nhiều, nên gọi là hàn tý (thống tý).
- Đau cố định một chỗ kèm có nặng nề tê dại là do thấp khí nhiều, nên gọi là thấp tý (trước tý).
Lâu ngày, phong hàn thấp hoá nhiệt kết hợp với âm hư gây nên thể "nhiệt tý" là những đợt cấp diễn của thấp khớp kinh.
Tổng hợp cả 4 thể trên quy nạp lại có 2 loại chính như sau:
Loại cấp tính:
Phát bệnh đột ngột sưng tấy nóng đỏ, đau nhức kịch liệt, hoặc phát sốt, hoặc có khát nước, buồn bực khó chịu, rêu lưỡi nhờn mỏng, mạch phù sác hoặc khẩn.
Phép chữa: Khu phong, tán hàn, trừ thấp, thanh nhiệt.
Bài thuốc: Rễ gối hạc 16g, lá đơn mặt trời 12g, đơn tướng quân 12g, lá bạc thau (sao) 12g, dây kim ngân 10g, ké đầu ngựa 16g, lá thông 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trước bữa ăn.
- Nếu phong nhiều, thêm: Vòi voi 16g, kinh giới 12g. Hàn nhiều, thêm: Tỳ giải 16g, thổ phục linh 16g.

 Rễ cà gai leo
Loại mạn tính: Bệnh phát từ từ hoặc ở cấp tính chuyển qua mạn tính, đau nhức nhẹ, không sưng hoặc có sưng mà da bình thường không tấy đỏ, không nóng, có khi ngoài da có chỗ tê dại, tay chân co duỗi khó khăn hoặc không vận động được, thay đổi thời tiết thì đau hơn, rêu lưỡi hoặc trắng nhờn hoặc vàng, mạch có khi trầm hoãn, có khi nhu hoãn.
Phép chữa: Khu phong, tán hàn, trừ thấp và chú ý đến bồi bổ cơ thể.
Bài thuốc: Nam đằng (sao vàng) 12g, găng bầu 12g, rễ gối hạc 12g, rễ bươm bướm 12g, rễ rung rúc 8g, tơ mành 8g, cử thiên tuế 16g, tầm gửi cây ruối 12g. Ăn kém thêm: ý dĩ 20g; Huyết kém thêm: rễ gấm (vương tôn) 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc chữa chung cho cấp tính và mạn tính:
Rễ độc lực (tầm sọng) 240g, rễ và dây lá lốt 120g, rễ cỏ xước 80g, rễ cà gai leo 80g, thiên niên kiện 40g, quế chi 40g, rễ gấc hoặc dây mặt quỷ 80g, rễ rung rúc 80g, rễ bộ nảy. Đổ 2 lít nước, sắc lấy 500ml, cho thêm đường và 1/10 rượu vào. Mỗi lần uống 20ml, ngày 3 lần uống trong 10 ngày.
Lương y Vũ Quốc Trung

Hai bài thuốc “cứu tinh” của bệnh đau thần kinh toạ

ST


Trong lúc y học hiện đại còn đang “vò đầu bứt tai” tìm cách chữa chứng bệnh thần kinh toạ, lương y Lương Minh Trí (45 tuổi, ngụ khu vực chợ Bồ Bản, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), Phó Chủ tịch Hội Đông y huyện Triệu Phong lại cho biết mình sở hữu đến hai bài thuốc cùng có thể giúp bệnh nhân bị thần kinh toạ giải trừ nỗi âu lo bệnh tật.
“Bảo bối” đông y từ 17 vị dược liệu

Chứng bệnh thần kinh toạ hay còn gọi toạ cốt phong, như lời lương y Trí cho hay, thường gặp phải ở lứa tuổi trung niên (40 - 60 tuổi). Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chứng thần kinh toạ như lao động nặng nhọc, nhiễm phong hàn.

Nguyên nhân phổ biến nhất xuất phát từ quá trình chuyển hoá can xi theo độ tuổi bên trong cơ thể người. Triệu chứng “đặc trưng” của bệnh nhân mắc chứng thần kinh toạ được ông Trí khái quát như sau: “Người bệnh thường bị đau ở vùng lưng, vùng chân hoặc đau nhức râm ran toàn cơ thể. Có một kinh nghiệm rằng bệnh nhân nữ thường đau nhức ở chân phải, còn nam đau ở chân trái. Thần kinh toạ khiến người mắc phải chịu cảm giác đau buốt đến tận xương tuỷ, việc đi lại rất khó khăn. Nếu để bệnh kéo dài sẽ dẫn đến bại liệt”.

Về nguyên tắc chữa trị, ông Trí cho biết trước tiên phải chẩn đoán đúng nguyên nhân gây bệnh mới có thể chọn lựa từng vị thuốc sao cho phù hợp. 

Bài thuốc đông y ông thường sử dụng gồm tất cả 17 vị với liều lượng cụ thể như sau: 


Độc hoạt (12g), 
phòng phong (12g), 
tế tân (5g), 
tần giao (12g), 
tang kí sinh (15g), 
đỗ trọng (15g), 
ngưu tất (15g), 
xuyên quy (15g), 
 xuyên khung (12g), 
thục địa (12g), 
bạch thược (15g), 
cam thảo (8g), 
bạch linh (12g), 
đẳng sâm (15g), 
nhục quế (4g), 
oai linh tiên (15g) 
thiên niên kiện (15g).

Về cách thức sử dụng thuốc, ông Trí cho biết chỉ cần trộn đều các vị đem sắc nước uống mỗi ngày chia thành 3 bữa sau khi ăn cơm. Ngoài ra tuỳ theo độ tuổi, thể trạng, mức độ nặng nhẹ của bệnh mà liều lượng những vị thuốc có thể tăng giảm khác nhau. Bởi vậy mỗi thang thuốc có thể uống một ngày hoặc chia thành các phần nhỏ uống nhiều ngày.

Thời gian uống thuốc trị bệnh thông thường kéo dài trên dưới 10 ngày. Đối với trường hợp bệnh nặng thời gian trị liệu thậm chí kéo dài hơn tháng. Công dụng của bài thuốc trên theo lời lương y Trí giải thích, sẽ giúp bệnh nhân giảm đau dần, khôi phục phần nào sự mềm mại của các khớp xương.

“Thuốc có chức năng bồi bổ khí huyết, tăng cường thể lực. Đối với người mắc bệnh do thoái hoá cột sống sinh gai thuốc sẽ tạo nên vỏ bọc bọc lấy chiếc gai này. Có thể hiểu đơn giản rằng khi được bọc kín gai sẽ không phát triển thêm và không tác động trực tiếp vào hệ thần kinh gây nên những cơn đau nhói nữa”, ông Trí giải thích.
Bốn vị cốt yếu trong bài thuốc đông y mà ông Trí cho biết có thể chữa khỏi bệnh thần kinh toạ.
Vị lương y bổ sung, bên cạnh việc uống thuốc trị liệu, người bị thần kinh toạ nên kết hợp song song phương pháp châm cứu, bấm huyệt nhằm tăng tác dụng của thuốc.

Bài cao thuốc nam trị chứng thần kinh toạ


Thẳng thắn chia sẻ kinh nghiệm bản thân trong việc chữa trị chứng bệnh thần kinh toạ, lương y Trí cho hay bệnh nhân có thể áp dụng bài thuốc nam nấu cao trị liệu. So với bài thuốc bắc, bài thuốc nam sau đây giúp tiết kiệm đáng kể chi phí nhưng tác dụng không hề thua kém.

Theo đó người bệnh sử dụng sáu loại thảo dược cơ bản để chế biến cao gồm: 


+ Gốc rễ cỏ xước, 
+ gốc rễ cây xấu hổ, 
+ rau má (mỗi loại ở dạng phơi khô 20g), 
+ lá lốt, 1 kg
+ cây hoa xích đồng nam 1 kg
+ bạch đồng nữ  1kg (ở dạng tươi). 

“Tất cả thảo dược trên có thể sử dụng ở cả hai dạng tươi hoặc khô, nếu dùng tươi thì hàm lượng tăng gấp đôi so với thuốc khô. Đem thảo dược rửa sạch, thái nhỏ sau đó sao vàng hạ thổ”, lương y Trí hướng dẫn cách chế biến nguyên liệu thảo dược.

Đến bước này người bệnh có thể bào chế thuốc theo nhiều cách khác nhau để sử dụng. Thức nhất đem thuốc nấu lấy nước uống hằng ngày hoặc cô cạn thành cao. Đối với phương pháp bào chế dạng cao, đòi hỏi liều lượng thuốc phải nhiều gấp 3 – 4 lần và bổ sung thêm mật ong. Cao càng đậm đặc, càng tăng công hiệu trị bệnh. “Riêng nấu cao cũng có đến hai dạng là lỏng hoặc dạng bánh. Chế biến dạng cao rất tiện sử dụng”, lương y Trí chỉ dẫn.

Về liều lượng sử dụng thuốc, ông Trí hướng dẫn tỉ mỉ tuỳ theo dạng thuốc như sau: 

“Nếu sắc nước, mỗi ngày uống một thang, uống trong vòng 10 - 15 ngày sẽ phát huy công dụng rõ rệt. Ở dạng cao lỏng mỗi ngày chỉ cần uống 1 - 2 tách nhỏ; còn cao bánh, mỗi lần ăn chú ý hấp mềm. Ngoài ra cũng có thể dùng cao thuốc ngâm rượu uống đều độ trước mỗi bữa ăn”.

Thú vị hơn, ông Trí cho rằng công dụng của loại cao thảo dược trên không chỉ đặc trị bệnh thần kinh toạ mà còn hỗ trợ điều trị nhiều bệnh khác.

Từ bệnh nhân trở thành thầy thuốc


Bất ngờ khi nghe lương y Trí tự thuật về cuộc đời mình. Ngày trước vốn ông không biết gì về thuốc thang, châm cứu. Chàng thanh niên lúc đó vẫn ấp ủ ước mơ trở thành thầy giáo: “Tôi may mắn đỗ vào ngành sư phạm nhưng bất ngờ bị bệnh thần kinh toạ. Bệnh ngày một nặng đến nỗi chân teo nhỏ bé tí nhấc đi không nổi. Dẫu gia đình đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng ai cũng lắc đầu bó tay, thế là tôi đành nghỉ học nằm liệt giường ở nhà gác lại mọi hoài bão”, ông Trí nhớ lại quãng thời gian giông tố trong đời.

Nhưng rồi số phận đã mỉm cười khi ông may mắn được người quen giới thiệu đến chữa bệnh tại một vị sư đồng thời là thầy thuốc. Sau sáu tháng trị liệu, bệnh tình ông Trí thuyên giảm đến bất ngờ: “Thật kì diệu, chỉ bằng châm cứu và uống thuốc đông y mà tôi đã đi lại như trước. Kể từ đó tôi xin thầy theo học nghề y luôn”.

Không chỉ học ở vị thầy cũng là ân nhân của mình, ông quyết tâm khổ luyện đèn sách để rồi vinh dự đứng trong hàng ngũ sinh viên tốt nghiệp trường trung cấp y Huế năm 1988. Quãng thời sau đó ông hồ hởi mang kiến thức nghề y học được trên ghế nhà trường bôn ba vào tận Đồng Nai cứu người.

Đến năm 1991 lương y Trí trở về sinh hoạt tại hội đông y Quảng Trị và nay trở thành phó chủ tịch hội đông y huyện Triệu Phong: “Tôi đem chính bài thuốc sư phụ đã chữa khỏi cho mình để chữa trị cho người khác. Tuy chỉ là cỏ cây hoa lá đơn giản nhưng tác dụng thật kì diệu. Bản thân tôi từng là bệnh nhân nên rất thấu hiểu tâm trạng người bệnh. Tôi muốn mọi người sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc đến bất ngờ như tôi năm xưa”.

Thêm câu chuyện khá thú vị nữa liên quan giữa nghề y và đời tư thầy Trí chính là chuyện tình của ông : “Vợ tôi lúc trước cũng là bệnh nhân đến nhà nhờ tôi chữa bệnh, sau vì cảm mến nhau nên gắn bó thành vợ chồng. Hay có thể nói nhờ nghề thuốc tôi đã lấy được vợ”.
Hơn 25 năm hành nghề y, ông Trí khẳng định nhiều bệnh nhân đã thoát khỏi bệnh thần kinh toạ nhờ hai bài thuốc mình đang chỉ dẫn. “Tôi không dám cam đoan chắc chắn nhưng tỉ lệ khỏi bệnh rất cao. Đặc biệt bài thuốc cao từ thảo dược ai cũng có thể tự chế để áp dụng”, ông khiêm tốn chia sẻ.

Để phòng trừ bệnh đau thần kinh tọa, cần tập luyện thể dục vừa sức thường xuyên để nâng cao thể lực. Nên áp dụng các bài tập tăng cường sự dẻo dai, khoẻ mạnh của các khối cơ lưng cạnh cột sống, cơ bụng và tăng sự mềm mại của cột sống. Tránh mọi chấn thương gây nên cho cột sống, người có dấu hiệu đau thắt lưng tuyệt đối tránh các trò thể thao hoặc vận động quá mức. Không nên nằm nệm quá dày, mềm và giường lò xo. Đối với những người lao động chân tay cần chú ý không mang vác vật quá nặng so với trọng lượng cơ thể.
Theo Mai Long - PLVN

"Bảo bối" gia truyền cực dễ kiếm trị dứt viêm dạ dày, đại tràng

ST

Lương y Hoàng Thiên Vân (74 tuổi, ngụ làng Trúc Lâm, phường Hương Long, Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) cho biết hàng chục năm nay đã áp dụng bài thuốc nam gia truyền chuyên trị bệnh viêm dạ dày, viêm đại tràng mãn tính thành công với hàng trăm người bệnh.
 
Bài thuốc tác dụng đúp
Lương y Vân trình bày bệnh nhân bị viêm dạ dày, viêm đại tràng mãn tính thường có những triệu chứng như: Hay ựa chua, tức bụng, ăn không tiêu, đi đại tiện ra phân lỏng.  Kèm theo đó, thể trạng người bệnh thường gầy yếu, da dẻ xanh xao.
Viêm đại tràng mãn tính là bệnh thường gặp, gây tổn thương niêm mạc đại tràng, khu trú một vùng hoặc lan tỏa khắp đại tràng. Bệnh dễ tái phát, dai dẳng và khó điều trị khỏi hoàn hoàn. Nếu không điều trị tốt, người bệnh sẽ gầy yếu, ăn kém, có thể dẫn tới suy kiệt và tử vong.
Viêm dạ dày mãn tính là một biến chứng của viêm mạc dạ dày do bị kích thích gây tổn thương hoặc bị tổn thương do cọ xát, ăn uống không điều độ, tinh thần không ổn định gây nên.
Theo kiến thức đông y, nếu không được phát hiện và chữa trị sớm, bệnh nhân viêm dạ dày, đại tràng có thể bị biến chứng sang nhiều bệnh khác, nặng có thể dẫn đến ung thư: “Thông thường người bị viêm dạ dày thường kéo theo đau đại tràng, nếu chỉ chữa trị cho dạ dày hoặc đại tràng thôi thì bộ phận còn lại vẫn bị đau. Bởi vậy tôi giới thiệu bài thuốc này để mọi người có thể áp dụng chữa một lúc hai bệnh”, ông Vân nói.
Giới thiệu cụ thể về bài thuốc nam gia truyền đang sở hữu, lương y Vân cho hay bài thuốc gồm bốn vị chính là: Thương truật (dạng củ, 20g), trần bì (tức vỏ quýt, 10g), hậu phát (một loại vỏ cây thuốc, 15g) và cam thảo (10g). Trong trường hợp người bệnh có triệu chứng đi đại tiện ra phân lỏng, cần bổ sung thêm hai vị thuốc khác nữa là sa nhân và mộc hương, mỗi vị 10g.
Ông Vân chỉ dẫn thêm cách thức bào chế thuốc như sau: “Ngoại trừ mộc hương, đem tất cả các vị thuốc phơi khô, sao vàng hạ thổ. Riêng cam thảo cần sao kĩ đến khi cháy sém các cạnh xung quanh là được. Để thuốc phát huy công dụng hơn, có thể tẩm thêm nước gừng tươi vào vị thuốc hậu phát trong lúc sao thuốc”.
Về cách dùng, theo ông Vân, có thể sử dụng bài thuốc theo hai cách: Sắc lấy nước uống; hoặc tán bột sau đó hoà với nước để uống. “Mỗi thang thuốc đem sắc nước hai lần, lần đầu 3,5 chén nước lấy 2/3 chén thuốc, lần sau 2,5 chén nước lấy 1/3 chén thuốc. Tiếp tục trộn đều nước thuốc thu được, chia uống thành 3 lần/ngày trước mỗi bữa ăn. Nếu thuốc dạng bột thì đem hoà với nước chia uống tương tự. Thông thường thuốc phải uống khi bụng no, tuy nhiên đối với bệnh viêm dạ dày, viêm đại tràng, uống thuốc lúc đói sẽ cho công dụng tốt hơn”, ông Vân căn dặn kĩ lưỡng.

Ngoài ra tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của bệnh, thể trạng sức khoẻ bệnh nhân mà có thể tăng hoặc giảm hàm lượng các vị thuốc nhất định. Tất nhiên vị lương y không quên lưu ý người bệnh cần kiêng tránh thức ăn cứng, dai, các loại mắm, thực phẩm cay, nóng trong quá trình trị liệu.
Giải thích công dụng của bài thuốc, ông Vân cho biết các vị thuốc sẽ giúp tái tạo men, trám lấp những vị trí hỏng men ở dạ dày, đại tràng gây viêm đau. Ngoài ra nếu bệnh nhân bị đau dạ dày, đại tràng kèm theo những bệnh khác, vẫn có thể bổ sung thêm vị thuốc để kết hợp điều trị tuỳ theo từng bệnh lý. “Thông thường chỉ cần kiên trì uống thuốc trong vòng nửa tháng, bệnh sẽ thuyên giảm rõ rệt. Những người bị viêm ở vị trí đáy bao giờ cũng nhanh khỏi hơn so với bị viêm ở thành dạ dày hoặc thành đại tràng”, ông Vân nói thêm.
“Bảo bối” gia truyền
Theo lời thầy thuốc Vân, bài thuốc nêu trên được ông nội của ông, vốn là một thầy lang ghi chép, truyền lại. Sau khi ông nội qua đời, bài thuốc quý dần chìm vào quên lãng. Mãi đến đời mình, ông Vân mới tìm tòi, mò mẫm thu thập các tài liệu cổ để bào chế lại bài thuốc gia truyền xưa kia. Ông kể: “Từ nhỏ tôi đã thường giúp ông nội sao chế thuốc nên yêu nghề và quyết tâm sau này sẽ nối nghiệp tổ tiên. Sau thời gian thống nhất đất nước, tôi chính thức hành nghề bốc thuốc cho đến tận bây giờ, tính sơ sơ đã gần 40 năm làm nghề”.
Nói thêm về bài thuốc gia truyền, lương y Vân cho hay trước đây do thiếu thốn, các thầy lang thường sử dụng hạt cau khô hoặc lá măng cụt để thay thế cho vị thuốc thường truật. Sau nhiều năm tìm tòi, nghiên cứu ông Vân đã hoàn chỉnh bài thuốc như bây giờ. Ưu điểm lớn nhất của bài thuốc như lời ông Vân nói là cực kì dễ kiếm, dễ bào chế nhưng mang lại hiệu quả cao trong chữa trị bệnh đau dạ dày, đại tràng.

Mặt khác bài thuốc gồm toàn những vị thuốc nam nên người bệnh không phải lo lắng chuyện xảy ra tác dụng phụ, ngay cả người không bệnh tật gì vẫn thi thoảng có thể sắc thuốc uống nhằm phòng bệnh. Bất ngờ hơn khi ông Vân nhẩm tính luôn giá mỗi thang thuốc nêu trên chỉ trên dưới 20 ngàn đồng, tùy vào giá cả của mỗi vùng miền.
Dẫu đã cao tuổi nhưng ông Vân vẫn nhiệt tình, xông xáo tham gia những hoạt động từ thiện như về vùng sâu vùng xa khám chữa bệnh giúp người nghèo, quyên góp thuốc giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn mang bệnh tật. Ở làng Trúc Lâm, ông Vân còn được “vinh danh” là vị lương y duy nhất của làng.
“Thầy Vân tốt bụng lắm, ai đau gì ông đều khám chữa nhiệt tình, ai khó khăn ông đã miễn phí tiền công, còn cho thêm thuốc”, một dân làng nhận xét. Điều đáng nể nữa, chưa bao giờ ông lão này tính toán đến chuyện bán buôn, kinh doanh thuốc thang. Điều ông bận lòng giờ đây là liệu mình còn sống được bao lâu để đem nghề giúp người, giúp đời?.
Theo Khoa học & Đời sống, người bị viêm dạ dày mãn tính, ngoài việc sử dụng thuốc, còn nên: 1. Không sử dụng các chất kích thích như rượu, thuốc lá, cà phê đặc hoặc trà đặc; 2. Ăn những đồ dễ tiêu hóa. Kỵ ăn chua, ăn nguội, quá nóng, quá cay và đồ khô rắn, tránh để đói hoặc no quá;
3. Khi ăn phải nhai chậm, nhai kỹ. Nên ăn nhiều bữa và số lượng thức ăn trong mỗi bữa có thể ít đi, đúng giờ;
4. Viêm dạ dày dạng co bóp, vị toan tiết ra giảm, nên người bệnh có thể ăn thêm hoa quả chua, sữa chua, canh thịt để tăng thêm dịch vị;
5. Nếu vị toan tăng nhiều (bệnh nhân bị ợ chua, nôn nao, cảm thấy nóng ruột, ăn nhiều nhưng dễ đói) có thể ăn thêm rau xanh nhiều xơ, bánh bích quy…;
6. Kiêng ăn các thực phẩm ướp hoặc xào rán, ít ăn các thực phẩm mặn và các loại bánh quá ngọt;
7. Hạn chế dùng một số thuốc có corticoit, thuốc giảm đau…;
8. Tích cực tham gia rèn luyện thân thể, đặc biệt là khí công.
Theo Quảng Thiên - PLVN

Bài thuốc 6 vị thảo dược diệt tận gốc bệnh thoái hóa cột sống


Bệnh thoái vị đĩa đệm ngày càng trở nên phổ biến và rất khó chữa trị. Tuy nhiên, với kinh nghiệm hơn 40 năm theo nghề y, lương y Nguyễn Vinh Quang (SN 1963, ngụ xã Thuỷ Bằng, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế) cho rằng có thể chữa khỏi căn bệnh trên bằng cây thuốc nam.
Lương y Nguyễn Vinh Quang cho biết bài thuốc chữa bệnh thoái vị đĩa đệm gồm sáu loại thảo dược, trong đó cây chìa vôi giữ vai trò chủ đạo. Theo lời thầy thuốc Quang mô tả, đây là một giống cây thân leo thường mọc gần bờ suối hoặc những nơi ẩm ướt, rất dễ kiếm.
Theo ông, tác dụng chữa bệnh của cây chìa vôi từ xa xưa các tài liệu y học cổ từng nhắc đến, là cây thuốc nam chữa được nhiều bệnh phổ biến như phong thấp, đau xương, thoái hoá cột sống.
Cách thức sử dụng cây chìa vôi làm thuốc như lời ông Quang hướng dẫn khá đơn giản: “Hái cây về rửa sạch, thái nhỏ, sau đó đem phơi khô hoặc sao vàng bằng lửa rồi đun lấy nước uống hằng ngày”. Ngoài vị thảo dược “chủ đạo” trên, bài thuốc chữa trị bệnh thoái vị đĩa đệm còn có thêm 5 loại thảo dược phụ khác là cây cỏ xước, dền gai, tầm gửi, cỏ ngươi và lá lốt.
Lương y Quang cho hay mỗi vị thảo dược đều có tác dụng đặc trưng. Tuy nhiên tác dụng chung của chúng là thu phong, giảm đau, điều trị xương khớp từ đó bổ trợ điều trị đĩa đệm bị thoái vị.
Theo ông Quang, cây chìa vôi có tác dụng chữa trị bệnh thoái vị đĩa đệm
“Sau khi phơi khô, mỗi vị dùng khoảng 20 – 30gr trộn đều với nhau đun lấy nước uống trong ngày. Nước thuốc có vị đắng nhẹ và thơm, hễ khát lúc nào cứ uống lúc đó chứ không cần phải băn khoăn liều lượng, bởi thuốc không hề gây ra tác dụng phụ nào. Người bệnh cũng không cần kiêng cữ bất cứ điều gì. Nếu kiên trì uống thuốc đều đặn, sau vài tháng sẽ cho kết quả rõ rệt. Khác với tây y, thuốc nam cho kết quả chậm mà chắc, thậm chí người không bị bệnh uống thuốc hàng ngày sẽ rất có lợi cho sức khoẻ”, lương y Quang chia sẻ kinh nghiệm.
Ngoài cách dùng phơi khô đun lấy nước uống, ông Quang cho biết thêm có thể kết hợp sử dụng lá cây chìa vôi trị bệnh thoái vị đĩa đệm ở dạng tươi như sau: Đem lá cây giã mịn, trộn thêm ít muối sống rồi cho hỗn hợp này vào túi vải, đắp lên vị trí bị đau nhức.
Ông không quên căn dặn tỉ mỉ: “Chú ý sử dụng lá tươi phải rửa thật kĩ, bởi trên bề mặt lá chìa vôi có lớp bột phấn gây ngứa. Muối sống sẽ có tác dụng khử chất ngứa này. Nếu trong quá trình đắp thuốc mà bị ngứa quá, người bệnh chỉ cần giảm lượng hỗn hợp lại là xong. So với sắc nước uống, sử dụng lá tươi cho kết quả nhanh hơn, thường đắp thuốc chỉ vài hôm sẽ giảm đau ngay”.
Bài thuốc từ sáu loại thảo dược phơi khô của ông Quang
Ngoài tác dụng chữa trị bệnh thoái vị đĩa đệm, ông Quang tiết lộ thêm bài thuốc gồm sáu vị thảo dược trên còn có tác dụng trị chứng thấp khớp, đau nhức xương và giúp “ăn ngon ngủ ngon”.
Thoái vị đĩa đệm là một căn bệnh thường gặp nhất trong số các bệnh về cột sống với tỉ lệ thoái vị đĩa đệm ở người trưởng thành là 30%. Nguyên nhân gây thoái hoá đĩa đệm có thể do vận động quá mức hoặc đĩa đệm yếu đi theo tuổi tác. Bệnh nhân thoái vị đĩa đệm thường cảm thấy tê nhức và đau toàn thân. Hiện nay phương pháp điều trị bệnh thoái vị đĩa đệm hiệu quả nhất là thay đĩa đệm cột sống bằng vật liệu nhân tạo. Tuy nhiên, phương pháp trị liệu này khá tốn kém và không phải bệnh nhân nào đều có điều kiện để thực hiện.
Theo Mai Long - PLVN

1 thg 7, 2013

Vụ án ly kỳ do con không có DNA của mẹ

Người mẹ trẻ ở bang Washington, Mỹ đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau, vì theo xét nghiệm nó không phải là con ruột cô.
 
Bà Lydia Fairchild.
"Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?"
Lydia Fairchild, 26 tuổi, sinh nở 3 lần. Sau khi sinh đứa thứ 3, cô bị thất nghiệp. Do không đủ điều kiện kinh tế nuôi 3 con một mình, Lydia phải viết đơn xin trợ cấp hàng tháng của Chính phủ tại địa phương cư trú, tiểu bang Washington. Mọi người trong gia đình cô đều được triệu tập tới Sở Dịch vụ xã hội để chứng minh các thông tin liên quan.
Ban đầu, Fairchild nghĩ đó đơn giản là một cuộc triệu tập như thường lệ với một nhân viên xã hội. Nhưng cô không ngờ bị thẩm vấn nghiêm khắc giống như một nghi can tội phạm. Cô chết điếng khi toà tuyên bố bạn trai cô là bố bọn trẻ. Còn cô, người đã sinh ra chúng lại không phải là mẹ, vì DNA của cô không trùng hợp với chúng.
Lydia Fairchild sẽ còn nhớ mãi cái ngày hôm ấy. Nhân viên tòa án gọi cô đến hỏi một cách đầy ngờ vực: “Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?” Ngạc nhiên, Lydia trả lời,: "Chúng là con tôi mà, sao lại có chuyện âm mưu gì ở đây?”. Người đó đáp lại lạnh lùng: “Chúng không phải là con cô. Chúng tôi đã xét nghiệm DNA. DNA của cô và bọn trẻ không giống nhau”.
Từ tòa án trở về, Lydia tưởng như sắp phát điên. Rõ ràng cô là mẹ của 3 đứa trẻ. Cô đã mang thai và sinh nở bình thường. Tất cả những người thân trong gia đình, hàng xóm và bác sĩ ở nhà hộ sinh đều biết. Thậm chí, mẫu DNA bố của bọn trẻ cũng phù hợp với DNA của cả 3 đứa. Nhưng tất cả những cái đó đều vô nghĩa trước tòa. Lý thuyết y học đã khẳng định DNA của mẹ và con phải tương đồng. 100% trường hợp đều như vậy. Ngược lại chỉ có thể là giả mạo.
Nghi ngờ xét nghiệm của tòa có sai sót, Lydia xin thực hiện lại xét nghiệm ở một số phòng thí nghiệm độc lập do chính cô lựa chọn. Kết quả vẫn y nguyên, không có chút sai sót nào. Cô, người sinh ra chúng, lại không phải là mẹ. Mặc dù, cả 3 đứa trẻ đều khăng khăng khẳng định mẹ chúng chính là Lydia Fairchild - người đang đứng trước mặt chúng.
Tuy nhiên, đó chưa phải là bằng chứng đủ sức thuyết phục. Như vậy, từ chỗ chỉ muốn xin một khoản trợ cấp xã hội hằng tháng để nuôi con, Lydia phải đối mặt với nguy cơ phạm tội: Cô có thể bị buộc tội giả mạo và lạm dụng bọn trẻ, thậm chí là bắt cóc trẻ em. Trong trường hợp đó, lũ trẻ sẽ bị đưa vào trung tâm bảo trợ xã hội và Lydia sẽ không bao giờ gặp lại các con mình. “Cô biết đấy. Chúng tôi có thể đón bọn trẻ đi bất cứ lúc nào”, một nhân viên xã hội nói với Lydia trước khi cô rời khỏi phòng.
Có sự nhầm lẫn?
Sau những giờ “thẩm vấn” xót xa, đầy hoài nghi, Lydia bắt đầu hoảng loạn, cô bước đi loạng choạng. Lydia vội vã trở về nhà tìm những bức ảnh siêu âm trong quá trình cô mang thai của từng đứa con một. Vừa nỗ lực lục tìm, Lydia kể với cha mẹ mình về kết quả xét nghiệm AND “quái dị” ấy. Cha mẹ Lydia không tin điều đó.
“Lúc đầu, tôi nghĩ rằng, con bé đang nói đùa. Chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Chính tôi là người đưa Lydia đến bệnh viện sinh. Rồi cả 3 lần sinh, chính mắt tôi nhìn thấy bọn trẻ do Lydia mang nặng đẻ đau. Tôi còn nhẹ nhàng ẵm chúng lên, khoe với mọi người trong gia đình và một số bạn bè”, bà Carol Fairchild, mẹ của Lydia kể lại trong sự ngỡ ngàng và đau khổ.
Tiến sĩ Leonard Dreisbach, bác sĩ khoa sản, người trực tiếp 3 lần đỡ đẻ cho Lydia khẳng định, Lydia là mẹ của cả 3 đứa trẻ. Ông còn cho rằng, trường hợp kỳ lạ của Lydia chắc chắn có sự nhầm lẫn nào đó trong kết quả xét nghiệm AND. Ông cũng rất sẵn lòng làm chứng trong phiên tòa về “sự thật” này.
Xét về tình, các thành viên ban hội thẩm cũng tin rằng, Lydia Fairchild là mẹ của cả 3 đứa trẻ. Nhưng về lý, Lydia Fairchild không có bằng chứng chứng minh, cô và các con có cùng dòng máu. Lydia có thuê luật sư biện hộ cho cô nhưng không ai nhận. Vì họ biết chắc, họ không thể thắng, kết quả AND đã cho biết điều đó. Sau cùng, Luật sư Alan Tindell “dũng cảm” nhận lời, bởi theo linh cảm ông tin, Lydia không phải là kẻ bắt cóc chúng, mà cô chính là mẹ đẻ.
Người có DNA từ nhiều nguồn khác nhau (Genetic Chimerism)
Trong thời điểm u ám ấy, một tia hy vọng chợt lóe lên. Luật sư Alan Tindell tìm thấy một bài viết trên tạp chí New England Journal of Medicine, có nói đến một trường hợp ở Boston tương tự như của Lydia. Ông đệ đơn lên tòa xin hoãn xét xử khi các xét nghiệm này có thể thực hiện.
Đó là trường hợp của bà Karen Keegan, một bà mẹ 52 tuổi có 2 con trai ở Boston. Xét nghiệm trước ca ghép thận của Karen cũng cho thấy DNA của bà và bọn trẻ không giống nhau. Bác sĩ ở đó, mặc dù biết chắc chắn rằng không hề có sự giả mạo nào, nhưng cũng không thể giải thích nổi điều gì đã diễn ra. Họ tiến hành những mẫu xét nghiệm ở máu, tóc, mô miệng nhưng tất cả đều không có AND của con trai bà.
Các bác sĩ đã tìm hiểu kỹ hơn tuyến giáp của Karen. Lý do khiến các bác sỹ chọn tuyến giáp để xét nghiệm AND vì trong 100 ml máu ở người bình thường, có 2 - 2,5 mmol calcium (100 mg/l) và tồn tại dưới 3 dạng là 40% gắn với protein, 5 - 10% ở dưới dạng muối kết hợp với phosphat, bicarbonat, citrat; và 50% còn lại tồn tại dưới dạng ion hóa, để đảm bảo cho hoạt động điện sinh lý của các tế bào.
Mỗi ngày, cơ thể hấp thu vào 25 mmol canxi và thải trừ 20 mmol ra phân + 5 mmol ra nước tiểu. Hormon tuyến giáp có vai trò huy động canxi từ xương ra máu, và vitamin D giúp hấp thu canxi vào cơ thể, đưa đến xương. Karen Keegan gặp một vấn đề khá hiếm trong y học gọi là chimerism.
Hiện tượng này xảy ra ở người hay động vật khi hai trứng được thụ thai, hoặc phôi thai kết hợp cùng nhau trong thời kỳ đầu của thai kỳ. Mỗi hợp tử mang một bản sao DNA của bố mẹ, vì vậy hợp tử mới có một bộ gene khác biệt. Về cơ bản, đứa trẻ sinh ra là song sinh của chính nó. Chimerism ở người rất hiếm. Trong các thử nghiệm DNA nhằm xác định con ruột của bố mẹ đã phát hiện trường hợp Chimerism khi đứa trẻ không có liên hệ sinh học với người mẹ - nó mang một DNA khác. Lydia Fairchild là trường hợp điển hình sinh ra một chimera. Người mẹ trẻ ở bang Washington đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau.
Trên thế giới có khoảng 30 trường hợp như vậy được ghi nhận. Thực chất đó là trường hợp hai cá thể song sinh tồn tại trong một cơ thể. Nguyên nhân là do có hai trứng cùng được thụ tinh, nhưng khi trong tử cung, đáng lẽ phải phát triển thành hai trẻ song sinh thì chúng lại “hòa lẫn” vào nhau, và trở thành một bào thai hoàn hảo duy nhất, nhưng có hai mã di truyền khác nhau - hai chuỗi DNA khác nhau.
Nói một cách khác, Karen là hai người trong một cơ thể và điều đó không thể quan sát bằng mắt thường, mà chỉ có thể phát hiện nếu xét nghiệm vật chất di truyền. Đó là lý do DNA trên khắp cơ thể bà lại khác với DNA của các con, nhưng DNA ở tuyến giáp lại giống.
Câu chuyện của Karen khiến Lydia có cơ sở thuyết phục quan tòa cho cô thêm thời gian. Cuối cùng, sau hàng loạt xét nghiệm, bác sĩ kết luận rằng Lydia cũng là một trường hợp chimerism. Hồ sơ vụ án được khép lại với một kết thúc có hậu: Lydia được công nhận là mẹ đẻ của các con cô và được nhận trợ cấp hàng tháng. Mỗi lần nhớ lại chuyện đã qua, Lydia vẫn thầm cảm ơn Karen: “Nếu không có bà ấy, tôi đã mất con”.
Câu chuyện của Lydia được lưu kỹ lưỡng trong hồ sơ xử án của tòa án tiểu bang Washington. Họ xem đây là “một vụ án y khoa” hiếm gặp. Còn phía y học và các nhà khoa học, đặc biệt là những nhà chuyên môn nghiên cứu về DNA cả về con người và động vật, họ xem đó là một bước tiến mới.
Theo An ninh Thủ đô

30 thg 6, 2013

Trùng tang và cách hoá giải

ST

Địa chỉ trang web tính trùng: http://huyenbi.net/cach_tinh_trung_tang

 Địa chỉ Chùa Hàm Long: Chùa Hàm Long tọa lạc tại phường Nam Sơn – TP Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh (Trước đây thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc). 

Chùa được xây dựng vào thời Lý, là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ, nằm trên sườn núi, địa thế rất đẹp. Chùa có những cây cổ thụ cực to, và cũng là một trong những trường Hạ, là nơi đào tạo các nhà sư ở đất Bắc. Chùa có tên Hàm Long vì có núi Thần Long như một chiếc án thư che chắn cho ngôi chùa phía trước. Đường lên chùa đi qua những bậc đá chen giữa gốc cây, bụi cỏ rất thơ mộng.

 Trùng tang – phép tính và phép giải

      Xưa nay trong dân gian, thường có những cảnh tai ương trong các gia đình, dòng họ, có những dòng họ cứ mỗi năm lại chết một người; nhanh hơn mỗi tháng chết một người; thậm chí có khi ba ngày, hoặc bảy ngày sau đã có người ra đi tiếp theo. Hiện tượng này được gọi là Trùng tang.

      Khi xảy ra hiện tượng trùng tang, các gia đình thường lo sợ hoảng loạn, vái lạy tứ phương, các thầy pháp sư nhân dịp này để bày trò lừa gạt nhân dân, nhiều khi vì tin lời thầy cúng dẫn đến sạt nghiệp gia cư, mà tai họa vẫn hoàn tai họa. 

       Để giúp nhân dân lấy lại bình tĩnh. Tôi xin tập hợp lại những nghiên cứu sách vở của mình, tổng kết lại thành một nội dung bao gồm cách tính trùng tang, phương pháp xem ngày giờ nhập liệm, giờ chôn cất, kiêng cữ trong gia đình và đặc biệt là bài thuốc giải trùng tang. Từ đó, mà khi trong nhà có người chết, lập tức bà con có thể biết được ngay cái chết của thân nhân nhà mình có gặp trùng tang hay không để mà kịp thời xử lý…

 A. Phép tính trùng tang:

Tị
Trùng tang




Ngọ
Thiên di
Mùi
Nhập mộ
Thân
Trùng tang
Nữ khởi tính tại Thân theo chiều nghịch
<=
Thìn
Nhập mộ



Dậu
Thiên di
Mão
Thiên di



Tuất
Nhập mộ

Dần
Trùng tang
Nam khởi tính tại Dần theo chiều thuận ^
Sửu
Nhập mộ
Thiên di
Hợi
Trùng tang
   
1. Ý nghĩa của Trùng tang, Nhập mộ và Thiên di:

-  Nhập mộ: nghĩa là người chết bởi đến đó hết số rồi nên phải chhuyển kiếp. Người ra đi được nằm xuống vĩnh viễn, không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ. Chỉ cần khi tính trùng tang mà gặp năm tuổi là nhập mộ, nghĩa là người chết đã hết số, thì không còn oan ức gì mấy, trùng tang được giảm nhẹ tối thiểu, tùy thuộc vào hạn trùng tang của người chết trước đó trong dòng họ đã được hóa giải hay chưa. Người chết mà được năm, tháng, ngày, giờ đều nhập mộ thì được coi là cái chết phúc đức để đời cho con cháu.

-   Thiên di: là dấu hiệu ra đi số do “Trời định”, người mất lúc đó được trời đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng là hợp với lẽ trời. Số này thường được giải thích theo hai lý do là do kiếp trước hoặc là tiên, hoặc là quỷ sứ bị đầu thai dáng làm kiếp người, hết thời gian tu luyện, bị Trời bắt đem về lại.

-   Trùng tang (kiếp sát): là dấu hiệu ra đi không hợp số phận, chưa tới số mà phải chết oan uổng, có sự oán thán nào đó của cõi âm, gây ảnh hưởng tới người ở lại. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải trùng tang mà không có “Nhập mộ” nào thì cần phải làm lễ “trấn trùng tang”

2. Phép tính để nhận biết trùng tang:
 
Theo sách “ Tam Giáo Chính Hội”: 
Nam nhất thập khởi Dần thuận liên tiến,
Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến,
Niên hạ sinh Nguyệt,
Nguyệt hạ sinh Nhật,
Nhật hạ sinh Thời. Ngộ :
-         Tý - Ngọ - Mão - Dậu:  Thiên di.
-         Dần - Thân - Tỵ - Hợi: Trùng tang.
-         Thìn - Tuất - Sửu – Mùi: Nhập mộ cát dã”.
Người chết dưới 10 tuổi không tính trùng tang. Trường hợp còn lại, cứ theo thứ tự bắt đầu từ năm mất như sau:
     -  Nam khởi tính trùng tang tại cung Dần và đi thuận (theo chiều kim đồng hồ);
-  Nữ khởi tính tại cung Thân và đi ngược (theo mũi tên ở như bảng trên)

Tính tuổi mất: Số năm chẵn, cứ 10 năm thì nhảy một cung (10,20,30..), hết năm chẵn thì số tuổi lẻ mỗi năm nhảy một cung, tính đến tuổi mất thì dừng, dừng tại cung nào thì xem cung đó coi thử tuổi mất là nhập mộ, thiên di, hay trùng tang;

Tính tháng mất: Hết phần tính tuổi thì đến tính tháng mất. bắt đầu từ cung kế tiếp, mỗi tháng nhảy một cung, bắt đầu từ giêng, hai, ba..., tính cho đến tháng mất thì dừng; 

Tính ngày mất: Hết phần tính tháng thì đến tính ngày mất ở cung kế tiếp bắt đầu từ ngày mùng một, mỗi ngày nhảy một cung, tính cho đến ngày mất thì dừng; 

Tính giờ mất: Hết phần tính ngày mất thì bắt đầu tính giờ mất ở cung kế tiếp, mỗi giờ nhảy một cung bắt đầu từ giờ Tý, tính cho đến giờ mất thì dừng; 

Tính giờ liệm: Hết phần tính giờ mất, tính giờ liệm từ cung tiếp theo bắt đầu từ giờ mất, chọn giờ liệm tại các cung Tuất, Sửu, Mùi (không chọn cung Thìn vì kỵ long hổ kê xà); 

Tính giờ chôn: Hết phần tính giờ liệm, tính giờ chôn ở cung tiếp theo bắt đầu từ giờ liệm, chọn giờ chôn tại các cung Tuất, Sửu, Mùi  (không chọn cung Thìn vì kỵ long hổ kê xà).

Ví dụ:
Một người 38 tuổi, mất vào giờ sửu, ngày 8 tháng 5 năm 2012. Căn cứ bản đồ 12 chi giáp trên mà tính:
-  Nếu người đó là nữ thì “nhất thập khởi Thân nghịch liên tiến” mà tính thì 10 tuổi tại thân, 20 tuổi tại Mùi, 30 tuổi tại Ngọ. đến đây số tuổi chẵn đã hết ta bắt đầu tính tiếp tuổi lẻ: 31 tại tị, 32 tại thìn,…--> 38 tại Tuất là Nhập mộ, suy ra người nữ này đã hết số, có thể hóa giải được tháng, ngày, giờ dù có rơi vào trùng tang.
-  Nếu người đó là nam thì “ nhất thập khởi Dần thuận liên tiến ”, theo chiều thuận ta có 10 tuổi tại Dần, 20 tại Mão, 30 tại Tị, 31 tại Ngọ,…--> 38 tại Tý, nhằm cung Thiên di. Bấy giờ ta tính tháng mất ở cung kế tiếp tháng 1 tại sửu, tháng 2 tại Dần,…, tháng 5 rơi vào cung Tị là Trùng tang; Tính ngày mùng 01 từ cung tiếp theo là Ngọ, mùng 2 là Mùi,…, mùng 8 là Nhập mộ; Tính giờ tý từ cung tiếp theo là Dần, tới giờ Sửu nhằm cung Thiên Di. Tổng kết lại, mạng nam này có hai Thiên di, một Nhập mộ, một Trùng tang. Người này có số trời định, lại mất vào ngày Nhập mộ, nên Trùng tang cũng đã được hóa giải, không cần phải lo lắng nữa.

4. Mức độ nặng nhẹ của trùng tang:

-  Nếu có 4 lần tính Trùng tang (năm, tháng, ngày, giờ) thì gọi là Trùng tang thất xa, có thể có tới 7 người chết theo. Đây là loại trùng tang nặng nhất;
-  Nếu có ¾  lần tính Trùng tang thì gọi là Trùng tang tam xa, có thể có tới 3 người chết theo;
-  Nếu có 2/4 lần tính Trùng tang thì gọi là Trùng tang nhị xa, có thể có tới 2 người chết theo
-  Nhẹ nhất là một lần trùng tang, một người chết theo.
Tuy nhiên, hạn trùng tang có thể tự hóa giải nếu người chết có tuổi rơi vào cung Nhập mộ.

5. Các loại Trùng tang khác:


Trùng tang do tính sai ngày chôn:
Tháng giêng: ngày 7-19
Tháng 2, tháng ba: ngày 6-18-30
Tháng tư: ngày 4-16-28
Tháng năm, tháng sáu: ngày 3-15-27
Tháng bảy: ngày 1-12-25
Tháng tám, tháng chín: ngày 12-24
Tháng mười : ngày 10-22
Tháng 11- tháng chạp: ngày 9-21
    Nếu người chết mà chôn vào các ngày trên thì trong vòng ba tháng hoặc là ba năm sẽ có cha mẹ, con cháu, anh em ruột chết nữa. Cái khó ở đây là đã chôn rồi, việc trấn trùng tang rất khó, gia chủ không tự lo liệu được nữa mà phải nhờ thầy chùa. Đặc biệt là khu vực từ Nam miền Trung đổ vào thường có tục trong vòng 3 ngày là xây mộ luôn không cải táng nữa, thì càng sinh to chuyện. 

Trùng tang liên táng:
-  Tuổi Thân Tý Thìn chết năm tháng ngày giờ Tỵ
-  Tuổi Dần Ngọ Tuất chết năm tháng ngày giờ Hợi
-  Tuổi Tỵ Dậu Sửu chết năm tháng ngày giờ Dần
-  Tuổi Hợi Mão Vị chết năm tháng ngày giờ Thân
Chết vào ngày giờ trên gọi là ngày gọi là Cướp Sát (hay Kiếp sát). Nếu người bị vào trường hợp trên rất là nguy hiểm cho gia quyến, họ tộc,  nhanh có thể là 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng, đã có người chết theo. (Trường hợp này rất hiếm gặp)


3. Chết nhằm ngày thần trùng:

    - Tháng 1,2,6,9,12: Chết nhằm ngày Canh Dần, Canh Thân là phạm "Lục Canh Thiên Hình Thầ trùng". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng

- Tháng 3: Chết nhằm ngày Tân Tị, Tân Hợi là phạm " Lục Tân Thiên Đình Thần trùng". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng

- Tháng 4: Chết nhằm ngày Nhâm Dần, Nhâm Thân là phạm "Lục Nhâm Thiên Lao Thần Trùng ". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng

- Tháng 5: Chết nhằm ngày Quý Tị, Quý Hợi là phạm "Lục Quý Thiên Ngục Thần Trùng". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng;

- Tháng 7: Chết nhằm ngày Giáp Dần, Giáp Thân là phạm "Lục Giáp Thiên Phúc Thần Trùng", Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng;

- Tháng 8: Chết nhằm ngày Ất Tị, Ất Hợi là phạm "Lục Ất Thiên Đức Thần Trùng ". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng;

- Tháng 10: Chết nhằm ngày Bính Dần, Bính Thân là phạm "Lục Bính Thiên Uy Thần Trùng". Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng;

-  Tháng 11: Chết nhằm ngày Đinh Tị, Đinh Hợi là phạm "Lục Đinh Thiên Âm Thần Trùng", Nếu gặp thêm năm tháng cũng vậy thì trùng tang càng nặng

B. Làm gì khi phát hiện trùng tang?

1. Tính giờ nhập liệm, hạ huyệt: (dùng cho cả trường hợp không trùng tang)
-  Việc tính giờ hành sự tang lễ cho người chết không giống như chọn ngày  hoàng đạo để hành sự công việc của người sống. Mà giờ nhập liệm và ngày chôn phải là ngày, giờ Nhập mộ Tuất – Sửu - Mùi (Không tính Thìn bởi Thìn năm trong "Long - hổ - kê - xà tự kỵ"). Cách tính cũng theo vòng “Thiên di - Nhập mộ” đã vẽ ở trên. Nhưng thay vì "nam khởi Dần thuận tiến, nữ khởi Thân nghịch tiến", thì cách tính giờ nhập liệm, giờ chôn, ngày chôn khởi từ giờ chết "nam khởi tử thuận tiến, nữ khởi tử nghịch tiến" để chọn ngày nhập mộ trong cung Tuất, Sửu, Mùi. Nghĩa là căn cứ vào giờ chết để tính giờ nhập liệm trong cung Tuất - Sửu - Mùi; Tính tiếp để chọn ngày hạ huyệt trong cung Tuất - Sửu - Mùi; lại tiếp tục tính đến giờ hạ huyệt cũng trong cung Tuất - Sửu - Mùi. Tính được ngày giờ nhập mộ rồi, nếu muốn tốt hơn nữa thì xem trong các giờ Tuất, giờ Sửu, giờ Mùi xem giờ nào trong số ba giờ kể trên trùng vào sao Tư mệnh hoàng đạo là ngôi sao chỉ phúc đức, thì chọn để nhập liệm. Giờ là quan trọng nhất, nếu không chọn được ngày Nhập mộ có hoàng đạo thì chỉ cần có giờ Nhập mộ (Tuất, Sửu, Mùi) hoàng đạo cũng vẫn tốt.
-  Tuyệt đối kỵ các ngày giờ rơi vào cung Dần – Thân – Tị - Hợi, là ngày giờ Trùng tang không dùng để nhập liệm hay hạ huyệt được (ngày giờ tính theo vòng Thiên di – Nhập mộ ở trên).
-   Khi không thể đợi được ngày giờ tốt trong cung Tuất – Sửu – Mùi, thì có thể sử dụng ngày giờ của cung Thiên di: Tý – Mão – Ngọ để hành sự tang lễ cũng tàm tạm được (ngày giờ tính theo vòng Thiên di – Nhập mộ ở trên).

2. Kiêng cữ khi nhập liệm:
 
·  Đối với người thân trong nội tộc, khi có trùng tang không được tham gia nhập liệm, mà cần phải nhờ người ngoài hoặc họ xa bên ngoại thực hiện.
·  Nhưng nhờ người ngoài vẫn phải: Long - Hổ - Kê - Xà  tứ kỵ sinh nhân ngoại, nghĩa là người tuổi Thìn, tuổi Dần, tuổi Dậu, tuổi Tị không bao giờ được đứng nhìn nhập liệm, kế cả trường hợp không trùng tang; ngoài ra kị người có cung phi bát trạch xung khắc với vong mệnh;

·   Không hành lễ người chết trùng tang trong nhà, mà phải liệm tại nhà táng công cộng, hoặc quàn tại chùa. Gia quyến không được khóc thành tiếng khi nhập liệm;

” – Nhà có người chết trùng phải lập tức gửi người đó lên chùa, tuy nhiên không phải chùa nào cũng giữ được vong chết trùng. Nó phụ thuộc vào sự linh thiêng của chùa và mức độ cao tay của vị sư trụ trì. Nếu trùng nhẹ các bạn có thể gửi lên một ngôi chùa nào đó gần nhà, các nhà sư sẽ hàng ngày đọc kinh niệm phật cho vong hồn siêu thoát (hay nói đúng ra là nhốt vong vào trong ngục, không cho đi lung tung kẻo quỷ sứ bắt được nó sẽ tra tấn và khai ra tên họ người nhà, càng những người hợp với vong chết trùng càng dễ bị bắt).

- Nếu trùng nặng, tôi khuyên chân thành bạn phải gửi ngay vào chùa Hàm Long, dù có ở trong Nam thì cũng nên cấp tốc đi máy bay ra mà gửi. Các chùa khác nổi tiếng về cái gì thì tôi không biết nhưng đệ nhất giữ vong phải là chùa Hàm Long ( Ở Thành phố Bắc Ninh). Đây là ngôi chùa cổ mấy trăm năm nằm trên sườn núi, địa thế rất đẹp. Chùa có những cây cổ thụ cực to, và cũng là một trong những nơi đào tạo các nhà sư ở Việt Nam. Từ trong nam ngoài bắc trùng tang đều đem về đó gửi. Hàng ngày vào buổi sáng tôi thấy các nhà sư tụng kinh niệm phật cúng vong rất cẩn thận.

- Khi gửi vào chùa rồi, bạn có thể yên tâm ăn ngủ nếu thực hiện đúng các điều sau (các nhà sư chắc cũng sẽ nói lại cho bạn nếu bạn đến đó):

1- sau khi gửi lên chùa, ở nhà không được lập bàn thờ cúng bái người đã chết nữa kể cả ngày giỗ tết, vì có hương là có hồn, chỉ cần bạn đốt hương và đọc tên người chết thì đó coi như chìa khoá mở ngục cho vong thoát ra ngoài.

2- Khi đưa vong lên chùa phải nhờ người không phải là họ hàng, nếu nhờ được bạn bè là tốt nhất, còn nếu không cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu thấy người quen đưa đi thì thường nó sẽ đi theo về hoặc tệ hơn là nó đã biết trước và không đi theo. Thế nên không nên bàn chuyện đưa tiễn vong lên chùa ở nhà người chết.

3- sau khi nên mộ tròn tức là người chết đã về với tổ tiên, mới được thờ cúng lại bình thường.

* Có một nhà sư đã nói đặc điểm của người chết trùng (không phải ai chết trùng cũng có đặc điểm này, tôi chỉ ví dụ để bạn tham khảo thôi) là: dù có ốm thập tử nhất sinh người đó vẫn luôn tin mình sẽ sống (kể cả là ung thư giai đoạn cuối thì vẫn tin có phép tiên), nên nếu bạn có hỏi xem người ấy có muốn trăn trối gì không thì họ thường lảng tránh câu đó không muốn trả lời. Thêm nữa nếu mất trong khoảng giữa đêm hoặc gần 6h sáng thì cũng nên cẩn thận vì đó là giờ quan, nên đi xem xét cho cẩn thận kẻo bị trùng tang mà không biết.
 

 Tôi đã đi nhiều chùa nhưng đó là ngôi chùa cổ u tịch nhất mà tôi biết, khi tôi đến đó thấy cả dãy dài ô tô từ tứ phương đổ về- thường là những người đi gửi vong chứ ít ai đi vãn cảnh chùa lắm có lẽ vì tâm lý đó là nơi giữ vong, mọi người đến thường xong việc đi luôn, chắc cũng vì sợ ở lâu chỉ thêm đau long do thương xót người đã mất. Các gia đình sau khi gửi vong thường chỉ thực hiện được một thời gian đầu những điều cần kiêng, sau vì thương tiếc người thân đã cúng lại vì sợ ma bị đói. Đây là điều cần hết sức tránh vì các nhà sư cúng bái còn cẩn thận hơn chúng ta nhiều. Có nhiều gia đình phải gửi đi gửi lại nhiều lần vì vong theo về, vì cúng khấn ở nhà. Vì vậy bạn nên tránh những điều tôi đã nói nhé.


Ghi chú:
 
Cách tính “trùng tang” theo “Phật pháp bách vấn”: 

Đối với những người tuổi thân, tý, thìn nếu mất vào một trong bất kể ngày hoặc tháng, năm, giờ tỵ thì coi là bị mất vào ngày trùng tang, còn được gọi là ngày “kiếp sát”. Tức là những tuổi đó “kỵ tỵ”. Mà đã ‘kỵ tỵ” thì những người tuổi thân, tý, thìn càng không được an táng vào ngày tỵ. Tương tự cách tính ấy, tuổi dần, tuất, ngọ kỵ hợi; tuổi tỵ, dậu, sửu kỵ dần; Hợi, mão, mùi kỵ thân.
Còn cách tính ngày trùng là chẳng hạn, ngày dần, tháng dần, năm dần, hay ngày thân, tháng thân, năm thân… cũng được gọi là ngày “trùng”. Ngày “trùng” này không tính riêng cho một tuổi nào mà bất kỳ người tuổi nào mất vào ngày “trùng” cũng “kỵ”.
Sách “Tam giáo chính hội” còn nói đến cách tính “trùng tang” cổ xưa là phải tính theo niên, nguyệt, nhật, thời (năm, tháng, ngày, giờ) thì mới biết người quá cố có “trùng tang” hay không. Theo cách tính đó thì những người mất ở tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, (cứ cộng thêm 3) thì sẽ bị “trùng tang”. Hoặc những người tuổi tý, ngọ, mão, dậu nếu mất vào một trong các năm tuổi ấy, cũng coi là “trùng tang”…
“Lực siêu nhiên” hay tình cờ?
Tuy nhiên, việc “trùng tang” có thật hay không hay chỉ là sự ngẫu nhiên tình cờ?
Mặc dù là thế giới tâm linh đầy huyền bí và cũng có hẳn cách tính ngày “trùng tang” nhưng Phật giáo lại quan niệm về “trùng tang” như thế này: Sống chết là chuyện thường niên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Nghiệp tuy có chung và riêng song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định, có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ mất cũng như chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác…”.
Trên cơ sở khoa học, GS.VS Đào Vọng Đức, PGS.TS Hà Vĩnh Tân, những nhà vật lý thuộc Hội Vật lý Việt Nam cũng đã bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về vấn đề này đã lý giải theo cách của mình.
Mà cách lý giải ấy rất giống với những kiến giải của cố GS Nguyễn Hoàng Phương - nhà vật lý học nổi tiếng - từng giải thích hiện tượng “trùng tang” theo lý thuyết sóng điện từ và trường năng lượng: “Trong mối quan hệ giữa người chết bị “trùng tang” và người bị “trùng bắt” không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số khác nhau nhiều nên theo lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống”.
Còn TS Đỗ Kiên Cường, một người rất am hiểu về những khả năng tiềm ẩn của con người, về những cái gọi là “thế lực siêu nhiên”… đồng thời là tác giả của rất nhiều bài viết lý giải về vấn đề này dưới góc độ khoa học cho rằng: “Trùng tang” đơn giản chỉ là sự trùng hợp mang tính ngẫu nhiên. Trong đó, bản chất của sự trùng hợp là luật số lớn trong lý thuyết xác suất và thống kê. Định luật này đơn giản có thể hiểu là: “Với một mẫu xét đủ lớn, bất kỳ hiện tượng kỳ lạ nào cũng có thể xảy ra”.
Như vậy, với những cách giải thích trên đây, mặc dù chưa có cách giải thích nào có thể chứng minh theo kiểu “tai nghe mắt thấy” nhưng rõ ràng “trùng tang” chỉ là một quan niệm “siêu thực”, xuất phát và tồn tại trong tín ngưỡng, thế giới tâm linh của con người. Và khi đã tồn tại trong tín ngưỡng dân gian, thế giới tâm linh của con người thì nhận định như nhà văn hóa Trần Lâm Biền “cần gì phải biết đúng - sai; thực - hư mà cứ để nó như vậy. Duy chỉ có điều không được khoác lên nó, thêu dệt xung quanh nó màu sắc mê tín dị đoan”.
Còn cách “hóa giải” trùng tang như Phật giáo khuyên: “Vì là tập tục đã ăn sâu vào tâm thức mọi người nên trong tinh thần phương tiên, nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phúc hồi hướng cho hương linh. Đây mới là những điều cần làm để “âm dương lưỡng lợi” theo quan điểm của Phật giáo”.
Còn để “trấn an” tinh thần của những người còn sống, dân gian có cách “giải” trùng tang là: dùng các vị thần sa, chu sa, sương luật, địa liền… cho vào một cái túi rồi đặt trong quan tài người chết. Hoặc có thể dùng bộ linh phù để gối đầu người đã khuất, dán lên ngực, hoặc lót dưới quan tài… Bộ linh phù này được biết ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh có bộ ván in khắc phù giải đã có mấy trăm năm nay. Người dân có thể đến đây nhờ các sư thầy tư vấn mà không nên lập đàn tế lễ tốn kém, gây hoang mang cho người còn sống…
Theo Nguyễn Anh - Petrotimes.vn