Vừa vay mượn vừa mới mẻ
Những ảnh hưởng của Châu Âu đối với đời sống văn hóa Mỹ - đâu là nét vay
mượn, đâu là nét mới của Mỹ - không phải là đề tài mới. Trước khi nhà quý tộc
Alexis de Tocqueville tiến hành chuyến đi nổi tiếng của mình tới cộng hòa non
trẻ Hoa Kỳ vào năm 1831, đã có khoảng 1.200 người Pháp viết về đề tài này.
Trong
suốt hơn 150 năm, người ta đã tranh luận rằng liệu có nét gì là nguyên gốc
của Mỹ trong nền văn minh Mỹ hay không? Niềm tin chính trị, định kiến về giai
cấp, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, lý thuyết kinh tế học, và niềm tự hào –
tất cả những cái đó đóng vai trò quan trọng trong cuộc bàn cãi của những
người ở hai bên bờ Đại Tây Dương.
Tuy nhiên, sang thế kỷ XX, khi ảnh hưởng, sự giàu có và sức mạnh của Mỹ tăng
lên, cuộc tranh luận bắt đầu chuyển hướng. Đề tài cũ rích về nền văn hóa Mỹ
đã có một sắc thái mới. Trước kia, ảnh hưởng của Châu Âu đã có lúc là một đề
tài nhạy cảm, thậm chí có tác động mạnh tới tình cảm của người dân Mỹ.
Hiện
nay, nó hầu như không còn dược công chúng Mỹ quan tâm một cách nghiên túc
nữa, và trở thành chủ đề bàn thảo của các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa.
Trái lại, ảnh hưởng văn hóa Mỹ đối với các nước khác trên thế giới lại là vấn
đề hiện đang gây nhiều tranh cãi và đôi khi làm xôn xao dư luận bên ngoài
nước Mỹ.
Trong
thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai, người dân Mỹ ngạc nhiên khi nghe
những lời buộc tội về “chủ nghĩa đế quốc” văn hóa và “chủ nghĩa dân tộc”.
Nhưng thật đáng tiếc, người ta cũng bàn về hình thái mới của nó trước đây. Do
vậy, cần phải có cách nhìn nhận từ góc độ lịch sử của vấn đề.
Khía cạnh lịch sử
Việc chia lịch sử văn hóa Mỹ thành ba giai đoạn lớn tuy là khái quát hóa vấn
đề , song sẽ bổ ích cho quá trình nghiên cứu. Không có đường ngăn cách rõ ràng
giữa các giai đoạn nhưng những ảnh hưởng khác nhau tác động tới những lĩnh
vực văn hóa khác nhau theo những cách thức không giống nhau nên mỗi giai đoạn
đều có giá trị lịch sử nhất định.
Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ thời kỳ thực dân đô hộ tới lúc diễn ra cuộc nội
chiến. Trong giai đoạn này, nền nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, văn học và
thời trang của Mỹ chịu ảnh hưởng mạnh của những ý tưởng, truyền thống và xu
hướng của châu Âu. Những gì hợp thời ở các trung tâm văn hóa châu Âu như
London, Paris, Rome thường là hình mẫu cho Boston, New Orleans, New York, và
Philadelphia học theo. Một số người Mỹ đi theo các xu hướng của châu Âu một
cách không hào hứng. Và thường phải đi sau một thời gian, các xu hướng đó mới
sang Mỹ. Chắc chắn dù sớm hay muộn, ít hay nhiều, người Mỹ cũng đã theo các
xu hướng đó.
Tất nhiên điều này không có nghĩa là Châu Mỹ chỉ biết du nhập nền nghệ thuật
và các nghệ sĩ từ nơi khác. Họa sĩ Mỹ Benjamin West, người được nước Anh gọi
là “Raphael của Mỹ”, là người sáng lập ra Viện hàn lâm hoàng gia ở London, và
từ năm 1792 là chủ tịch viện này trong suốt 26 năm. Và tài năng âm nhạc hiện
đại đặc biệt của người Mỹ cũng sớm thể hiện với việc sáng tác được những “bài
hát chuẩn”, những bài hát mà ở khắp mọi nơi, ai ai cũng biết hát.
Ngày nay, lý lẽ mà người Mỹ dùng trong giai đoạn thứ nhất để bảo về nền văn
hóa của họ thường bị lãng quên. Mong muốn tách rời về văn hóa với châu Âu là
một phần trong cuộc cách mạng của người Mỹ. Người Mỹ công kích nền nghệ
thuật, văn hóa và xã hội châu Âu là “ra vẻ quý tộc”, suy đồi, thoái hóa, kém
phẩm chất và xem đó như những nguy cơ đối với dân chủ ở Mỹ. Tuy nhiên quan
điểm này vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài.
Ở phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trong suốt nhiều năm, người Châu Âu cũng
nhắc đi nhắc lại một giọng điệu, được coi là quan điểm của giới quý tộc
thượng lưu, về nền văn hóa Mỹ. Theo đó, nền cộng hòa Mỹ, một nền dân chủ mới
của những thường dân “pha tạp chủng tộc”, có lẽ không đủ khả năng đem lại
những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Họ cho rằng việc gìn giữ và phát
triển nền văn minh luôn thuộc về tầng lớp lãnh đạo. Sự nổi lên của những
thường dân chỉ đồng nghĩa với sự xuống cấp về văn hóa và nghệ thuật.
Lý lẽ trên luôn trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào thời gian nổ ra những
cuộc cách mạng theo chu kỳ và những cuộc nổi dậy thường xuyên trên khắp đất
nước châu Âu trong thế kỷ XIX. Những người cảm thấy bị đe dọa nhiều nhất bởi
tiếng vang và ảnh hưởng của cuộc cách mạng tư sản Mỹ, và sau đó là cuộc cách
mạng tư sản Pháp, không có gì lạ chính là những người lên tiếng quyết liệt
nhất.
Do nguồn gốc xuất thân, đương nhiên Alexis de Tocqueville đã tán thành quan
điểm coi trọng giới lãnh đạo quý tộc. Trong cuốn sách nổi tiếng nhan đề Dân
chủ ở Mỹ (Democracy in America) xuất bản năm 1835, ông viết rằng người Mỹ hầu
như không có văn minh, nhưng cũng không nên mong đợi hơn thế vì họ không có
“tầng lớp quý tộc” và không có “sự phân biệt giai cấp”. Ông giải thích rằng
đó là lý do khiến người Mỹ không coi trọng những khía cạnh nghệ thuật tinh tế
hơn của cuộc sống, những khía cạnh vốn “nảy sinh từ những khoảng thời gian
rảnh rỗi của giới quý tộc”
Quan niệm này rõ ràng đã làm lẫn lộn vị trí giữa người nghệ sĩ trong xã hội
và người cai trị mình (chắng hạn, Benjamin West lại là người phục vụ cho vua
George III). Nó tồn tại trong một thời gian dài , đặc biệt trong Thế giới cũ.
Những gì mang tính phổ biến thì không thể có nhiều giá trị nghệ thuật, điều
đó gần như đã thành một định nghĩa. Tất nhiên, cho đến ngày nay, người ta vẫn
còn nghe thấy lập luận như vậy.
Những con đường xuyên Đại Tây Dương
Giai đoạn thứ hai, kéo dài từ thời kỳ nội chiến cho tới khoảng chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, được đánh dấu bởi sự căng thẳng. Có thể nói rằng,
người Mỹ có chân trong cả hai thế chiến, và họ thường cảm thấy đó là tư thế bất
tiện. Các nhà văn, kiến trúc sư và họa sĩ của thế kỷ XIX vẫn coi họ phần
nhiều là một bộ phận của truyền thống châu Âu. Tuy nhiên, càng ngày càng có
nhiều nghệ sĩ lấy Mỹ làm chủ đề và chất liệu cho sự sáng tạo nghệ thuật của
mình. Cuộc đấu tranh giữa châu Âu và châu Mỹ là một trong những đề tài quan
trọng hơn cả trong nền văn học của Mỹ.
Tuy nhiên, sang đến giai đoạn thứ hai này, có thể thấy rõ Mỹ đã phát triển
được phong cách văn hóa riêng của mình. Không còn lẫn đi đâu được chất Mỹ thể
hiện rõ trong giọng văn của những tay bút thế kỷ XIX như Cooper, Thoreau,
Emerson, Melville, Whitman…Rõ ràng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
đã hình thành.
Những
ảnh hưởng của châu Âu vẫn còn mạnh, song không còn áp đảo nữa. Cho dù có tự ý
thức được hay không thì trên thực tế, người Mỹ cũng đã bắt đầu đi theo con
đường riêng của mình. “ Tôi đi về hướng Đông chỉ vì bị bắt buộc, còn đi về
hướng Tây là ý muốn tự do của tôi” – Thoreau, tác giả của cuốn Walden, đã
viết như vậy năm 1862. Ông còn viết tiếp: “Ở phía Tây tôi thấy có tương lai
và ở đó, trái đất dường như giàu có hơn và không bao giờ cạn kiệt…Tôi phải đi
về hướng Oregon,
chứ không hướng sang châu Âu”.
Giai đoạn hiện nay là giai đoạn thứ ba, được đánh dấu bởi làn sóng sáng tạo
vô cùng mạnh mẽ của Mỹ trong mọi lĩnh vực, bởi ảnh hưởng quốc tế ngày càng
lớn và sự tự tin vững chắc. Nhà nghiên cứu nghệ thuật của châu Âu George
Steiner đã miêu tả giai doạn hiện nay của đời sống văn hóa Mỹ như là “giai
đoạn Elizabeth”
trong lịch sử nước Anh.
Mặc dù đã thể hiện cả trong mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc, vũ điệu, phim ảnh
và thời trang, những sức sống mãnh liệt và thử nghiệm sáng tạo của Mỹ thể
hiện riox nhất trong văn học. Người Mỹ đầu tiên vinh dự nhận giải thưởng
Nobel văn học vào năm 1930 là Sinclair Lewis. Tiếp sau ông, giải thưởng này
liên tục về tay những nhà văn Mỹ khác.
Và bây giờ có ai đọc tiểu thuyết của Mỹ không? Nếu ai đó muốn biết tên những
nhà văn Mỹ có tác phẩm được mọi người hầu như khắp các nơi trên thế giới đọc,
họ có thể nhận được một danh sách rất dài, bắt đầu từ vần A bằng những tên
tuổi chẳng hạn như Agee, Algren…và kết thúc đâu đó ở vần W với những tên
Walker, Williams.Tất nhiên, điều quan trọng là vấn đề được đặt ra từ lâu về
nền văn hóa Mỹ đã phần nhiều đi vào dĩ vãng.
Những vị trí đang thay đổi
Cũng khá nực cười rằng sau một thế kỷ rưỡi người Mỹ phải lo ngại về những ảnh
hưởng của người nước ngoài đối với nền văn hóa của họ, phải phàn nàn về những
tác động tiêu cực, “những tội lỗi ở vườn Babylon" và sự suy thoái đạo
đức của thế giới cũ đối với họ, thì dòng ảnh hưởng hiện nay lại có vẻ như đã
đổi chiều. Hiện nay, dường như Mỹ lại đang có quá nhiều ảnh hưởng. Đối với
nhiều người bên kia bờ Đại Tây Dương (và cả Thái Bình Dương), văn hóa Mỹ đã
trở nên quá phổ biến.
Một nhà phê bình người Pháp, trong khi thừa nhận sự ưu việt của tiểu thuyết
Mỹ hiện đại, đã phải phàn nàn về việc người Pháp ngày càng bắt chước theo Mỹ
nhiều hơn. Người ta đã quyết định đặt tiêu đề tiếng Anh cho cuốn Annales de
I’Institut Pasteur và chỉ xuất bản cuốn này bằng tiếng Anh. Một làn sóng phản
đối đã đăng kín trên báo cáo Pháp. Một mình chứng khác về “chủ nghĩa đế quốc
Mỹ trong lĩnh vực ngôn ngữ”, đó là sự thình hành của “tiếng Anh Mỹ” trong
ngôn ngữ khoa học quốc tế.
Khi
kiến trúc sư I.M. Pei, người được đào tạo tại Mỹ, được chọn để thiết kế cổng
vào mới của bảo tàng Louvre ở Pháp, một số ngươi Pháp đã nói tới sự phản bội
về văn hóa. Cũng tương tự như vậy, một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng
nhất của Đức đã phải than vãn về sự thiếu vắng một nền âm nhạc hiện đại thực
thụ ở nước ông. Nước Đức không hề nhận thấy họ đã trở thành một (vệ tinh của
Mỹ).
Trên
tạp trí Jie Zeit Magazin, một nhà báo đã viết rằng trong cuộc sống thường
nhật của mình, bà nhìn quanh đâu cũng thấy tiếng Anh Mỹ. Bà đã đặt câu hỏi
“Chúng ta đang ở đâu?”, “ở một thuộc địa của Mỹ ư?”. vào năm 1993, Wiem
Wnders, một trong những nhà đạo diễn phim được kính trọng nhất ở châu Âu, đã
tiên đoán rằng đến năm 2000, ngành điện ảnh của châu Âu sẽ không còn tồn tại
nữa. Các nước châu Âu bị “Một con ngựa khổng lồ của thành Troij”. Ông cảnh
báo rằng, ngay bây giờ, 95% tổng số thu nhập từ các bộ phim được trình chiếu
trên khắp châu Âu đã chảy về túi con ngựa khổng lồ đến từ Hollywood.
Mặc dù cùng đưa ra những lời phàn nàn tương tự như trên, nhưng người Anh tỏ
ra đặc biệt nhạy cảm trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của đất nước thuộc địa cũ
của họ. Khi hai kiến trúc sư người Mỹ là Robert Venturi và Denise Scott Brown
được chọn để thiết kế một bên cánh mới cho Nhà triển lãm mĩ thuật quốc gia ở
London, các nhà phê bình người Anh đã nổi dậy và cho đến khi cánh Sainsburi
được khánh thành năm 1991, cơn giận của họ vẫn chưa nguôi.
Cùng
năm đó, Nhà hát vũ kịch hiện đại của London đã chọn ra một giám đốc mới,
người mà tờ the sunday times (Thời báo chủ nhật) đã cho rằng "cũng lại
là một người Mỹ nữa” Cách đây hơn 10 năm, các nhà xuất bản của Mỹ đã xuất bản
tới ¾ tổng số sách bằng tiếng Anh trên thế giới. Ngày nay, việc một tác giả
người Anh in sách tại một nhà xuất bản ở Mỹ không phải chuyện lạ, và nhiều
cuốn sách như vậy, khi sau đó được in lại ở Anh, vẫn giữ nguyên bản tiếng Anh
của Mỹ.
Người
ta đã viết những chồng thư dài vô tận gửi tới các báo ở Anh phàn nàn về những
“tác động tiêu cực” của tiếng Anh Mỹ đối với trẻ em vị thành niên ở Anh được
lan truyền qua radio, TV, phim ảnh, âm nhạc, và băng video. Sự Mỹ hóa này
"thậm chí càng tồi tệ hơn” vào dịp Giáng sinh, khi mà tất cả những gì
được trình chiếu chỉ là phim và các chương trình biểu diễn của Mỹ.
Nếu như Benjamin Franklin, người hai thế kỷ trước đây đã từng phê phán gay
gắt những ảnh hưởng tiêu cực của Anh đối với Mỹ, có thể sống lại thì ông sẽ
nghĩ gì khi nghe được rằng đối với nhiều người, cái Thế giới mới gan dạ của
ông đã trở thành “Vườn Babylon mới?" Mới chỉ cách đây hai hoặc ba thế
hệ, trong tâm trí những người thuộc tầng lớp trung lưu ở Mỹ, Paris là nguồn gốc của mọi tội lỗi và lối
sống hoang dã.
Thật
mỉa mai là nếu nhìn từ góc độ lịch sử, hình ảnh Paris đã được thay thế bằng
sức sáng tạo nghệ thuật đã suy đồi của thành phố New York, hay cảnh tượng
hoang dã và kỳ quặc về “tình dục, mặt trời và ma túy” ở California. Paris có thể còn là nơi
để người Mỹ và người châu Âu cùng giải trí.
Nếu một số người Mỹ không có cảm giác gì trước những lời kết tội về “chủ
nghĩa đế quốc về văn hóa” thì, trước hết, có thể nới rằng họ đơn giản chỉ
đang đáp lại một lời ca tụng về lịch sử. Thứ hai là người Mỹ nói chung không
quan tâm đến cuộc thảo luận nào diễn ra bên ngoài đất nước họ. Nếu nhìn theo
một góc độ tích cực hơn, họ đã trở nên sẵn sàng chấp nhận những mối quan hệ
và những sự vay mượn về văn hóa.
Trên thực tế, họ thường tự hào chỉ ra những lợi thế của việc có nhiều truyền
thống văn hóa đa dạng như vậy. Sự trưởng thành về văn hóa khiến họ trở nên ít
quan tâm hơn tới việc xác định đâu là những thứ của “ngoại quốc”, đâu là của
Mỹ, những gì đã du nhập vào Mỹ hoặc xuất khẩu từ Mỹ ra ngoài.
Ở Mỹ, người ta mong đợi và chào đón chủ nghĩa quốc tế và thuyết đa nguyên.
Chẳng hạn, nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc của Mỹ cảm thấy thoải mái mỗi khi chỉ
huy những giàn nhạc nước ngoài chẳng khác nào chỉ huy dàn nhạc trong nước.
|
Thành
phố New York (Ảnh: Internet)
|
New York, New
York
Thành thực mà nói, New York
thường gây bực mình cho những người ở các thành phố khác của Mỹ cũng như rất
nhiều người ở các nước khác trên thế giới. Người dân New York nghiễm nhiên coi thành phố của họ
là trung tâm tài chính, kinh doanh và thông tin liên lạc của thế giới. Không
những thế, New York
còn là “thủ đô nghệ thuật của thế giới” và là “thành phố có nghệ thuật múa và
balê hiện đại nhất”.
Nó là
“trung tâm sách báo và xuất bản hàng đầu”, “điểm giải trí của cả trái đất”,
và là nơi “có nhiều diễn viên hơn kẻ cướp”. Như một cuốn sách hướng dẫn du
lịch của một nước ngoài đã hào hứng khẳng định, New York là quê hương của nhà hát opera
nổi tiếng nhất thế giới – the Met – Nhà hát Opera trung tâm.
Một người nào đó đến từ Washington – J.C. vốn có ý thích coi thành phố mình
như “thủ đô cả nước”, có thể sẽ nói ngay rằng thư viện của Quốc hội nằm tại
đây là thư viện lớn nhất trên thế giới. Cũng giống như một ai đó từ quê hương
Harvard có thể giải thích rằng thư viện của trường họ là thư viện đại học lớn
nhất thế giới.
Như
người New York sẽ nói một cách đơn giản là
“tôi tin” rằng Thư viện công cộng của New
York là thư viện lớn nhất trên thế giới mà không
phải là bộ sưu tập quốc gia. Điều khiến nhiều người bực mình về người dân New York đến như vậy
là việc họ biết mình sống ở đâu và họ là ai. Thường họ tỏ ra không quá quan
tâm đến những gì tất cả chúng ta đang nghĩ.
Những quà tặng nghệ thuật mà New
York dành cho du khách nhiều và đa dạng đến mức tác
giả của những quyển sách hướng dẫn du lịch thường bỏ qua và chỉ liệt kê các
con số. Chẳng hạn, chỉ riêng ở New
York, có khoảng 12 000 nghệ sỹ và nhà điêu khắc
hành nghề để kiếm sống. Ở New York
có bảo tảng nghệ thuật trung tâm, mà sánh ngang với nó chỉ có Bảo tàng Anh và
Louvre của Pháp.
Vị thế trung tâm nghệ thuật hàng đầu mà New York có được không chỉ dựa trên số
lượng các nghệ sỹ làm việc tại đó và là nơi có nhiều triển lãm, trưng bày hay
bảo tàng. Nhiều bước đi quan trọng trong nền nghệ thuật hiện tại xuất phát từ
đây. Trong số những bước tiến được nhiều người biết đến – khởi điểm chủ yếu
từ New York và phổ biến trong nền nghệ thuật quốc tế - có trường phái Biểu
hiện trừu tượng và Hành động trong hội họa với những hình thái đầu tiên ra
đời ở New York vào những năm 1959 – 1960, nghệ thuật Pop, nghệ thuật siêu nhỏ
và nghệ thuật nhiếp ảnh theo trường phái hiện thực.
Cũng tương tự như vậy, thành phố Chicago thường được gắn liền với kiến trúc
hiện đại, bởi đó là quê hương của Louis Sullivan, người đôi khi được gọi là
“cha đẻ của những tòa nhà chọc trời” và Frank Lloyd Wright. Tuy nhiên, đối
với nhiều người, chính những đường nét của Manhattan trên bầu trời mới là biểu tượng
của thành phố hiện đại to lớn. Và Bảo tàng Guggenheim là một trong những công
trình thiết kế nổi tiếng nhất của Wright.
Chicago cũng
là nơi lẩn tránh của nhiều nghệ sĩ Bauhaus. Một vài người trong số họ, như
Mies Van Der Rohe, người đã cùng hợp tác với kiến trúc sư người Mỹ Philip
Johnson, đã làm được nhiều việc có ảnh hưởng đến nền kiến trúc hiện đại.
Nhưng chính New York
lại là nơi có một số công trình nổi tiếng nhất của họ.
Do khá nhiều công ty thông tin và truyền thông lớn cũng như những người khổng
lồ trong lĩnh vực xuất bản như Time – Warner và Turner có trụ sở chính tại
New York, nên New York còn trở thành một trung tâm quan trọng đối với các
phóng viên nhiếp ảnh. Cuối cùng, cái gọi là “nghệ thuật đường phố” – cho dù
đến nay đã là những bức Graffiti và những bức họa đắt tiền tại ga tàu điện
ngầm hay những bức vẽ treo tường và trên các tòa nhà – có liên quan mật thiết
với nền nghệ thuật Nam Califognia và Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, vẫn là những
thứ thường hay được gắn với New York nhất.
Sân khấu kịch đặc biệt thịnh hành trong hàng trăm nhóm trường đại học và nhóm
khu vực trên khắp cả nước Mỹ. Nhưng chỉ có Broadway với khoảng 40 sàn diễn
truyên nghiệp và trên 350 sân khấu thử nghiệm ở ngoài khu vực Broadway mới
làm người ta biết đến những nhà viết kịch của Mỹ như O’Neill, Miller,
Saroyan, William. Chỉ tính riêng ở New
York đã có trên 15 000 diễn viên chuyên nghiệp, và
ở bang Califognia có khoảng 20000. Hơn 16 000 và nhà soạn nhạc chuyên nghiệp
sống ở New York,
và khoảng 23 000 ở Califognia. Cuộc cạnh tranh thật gay gắt.
Những trung tâm trải dài trên bờ đại dương
Mặc dù New York gần như có nhiều sản phẩm văn hóa dành cho du khách hơn hẳn
các thành phố khác, nhưng nó cũng chỉ là một trung tâm văn hóa lớn chứ không
phải là duy nhất ở Mỹ. Thực tế là số người Mỹ đi dự các buổi hòa nhạc giao
hưởng nhiều gấp 3 lần những người đi xem những trận đấu bóng rổ, điều đó có
thể giải thích bằng một thực tế là trên khắp nước Mỹ có khoảng 1500 giàn
nhạc. Gần 40 giàn nhạc ở Mỹ có thể được coi là giàn nhạc “lớn”, có tầm cỡ
quốc tê.
Các nhóm đồng diễn và các giàn nhạc của các trường học và trường đại học cũng
đóng một vai trò rất quan trong trên cả nước. Chúng như là những trung tâm
chuyên nghiệp đào tạo các nhạc công và vũ công. Ở Mỹ người ta tổ chức hàng
trăm cuộc thi âm nhạc ở cấp thành phố, bang và quốc gia. Các khoa âm nhạc,
kịch và múa thuộc các trường đại học cung cấp học bổng và các khóa đào tạo
chuyên nghiệp. Phần lớn các buổi hòa nhạc và các buổi biểu diễn âm nhạc do
các trường tài trợ đều không mất tiền vé.
Những buổi hòa nhạc cộng đồng ngoài trời miễn phí cho tất cả mọi người cũng
là một truyền thống lâu đời ở Mỹ. Có 2 nguyên nhân giải thích cho sự ra đời
của truyền thống này. Một là, những buổi hòa nhạc đó thể hiện mối quan hệ tốt
với công chúng, là một cách để các nghệ sĩ cảm ơn cả cộng đồng vì đã ủng hộ
họ và để kết bạn mới. Lý do thứ hai thật đơn giản, đó chính là những buổi vui
chơi giải trí, cho dù có hay không có nhạc cổ điển.
Vì vậy, cái được gọi là âm nhạc đang nghiêm túc đang phát triển lành mạnh ở
Mỹ. Một mặt, loại nhạc này đã có truyền thống về chất lượng, gắn liền với tên
tuổi của những người như Menuhin, Stern…Mặt khác, chất lượng đó có triển vọng
tiếp tục được bảo đảm với sự có mặt của đông đảo các nhạc công, ca sĩ và vũ
công đang được đào tạo.
Vai trò của những người ủng hộ
Có thể nói thêm rằng, kể cả nghệ thuật kịch cũng như bất kỳ ngành nghệ thuật
nào khác ở Mỹ, đều không hề dựa vào tiền của nhà nước. Chúng tồn tại không
phải vì được các thành phố hay các bang cấp vốn hoạt động. Nhiều người Mỹ có
xu hướng coi văn hóa và các ngành nghệ thuật là những lĩnh vực nhà nước không
nên can thiệp tới.
Việc cần phải có một bộ trưởng văn hóa hay âm nhạc là ý tưởng ngoại lai đối
với họ. Họ không xem chính phủ là người bảo trợ cho nghệ thuật. Thêm vào đó,
chẳng hạn, những người yêu nhạc jazz sẽ không hiểu được tại sao tền đóng thuế
của họ lại được sử dụng để phục vụ cho thú vui của những người yêu thích nhạc
cổ điển hay ngược lại. Người Mỹ cảm thấy rằng mỗi cá nhân cần sẵn lòng ủng hộ
và đóng góp kinh phí cho hoạt động văn hóa mà mình ưa thích, bất kể đó là
hoạt động gì.
Nhà
hát Opera trung tâm, hay the Met, là một ví dụ điển hình. Trung tâm Lincoln
rộng 14 hecta, trong đó có trụ sở của dàn nhạc Những người yêu nhạc và Khoa
âm nhạc Juliard cũng không kém phần nổi tiếng, được tài trợ chủ yếu thông qua
những mon quà và những khoản tiền của hàng nghìn cá nhân, tổ chức tư nhân,
các tổ hợp công ty và những tổ chức phi lợi nhuận. Trong tổng số ngân quỹ 75
triệu USD hàng năm của Met, chỉ có 5% là từ các nguồn phi chính phủ, ở cấp
liên bang, bang hoặc thành phố. Chín mươi lăm phần trăm còn lại là do tư nhân
đóng góp, cộng thêm tiền thu được từ bán vé và một số thu nhập khác.
Mỗi năm trôi qua lại dem đến cho người ta nỗi lo sợ mới (“Liệu the Met có bị
khánh kiệt không?”), nhưng rồi sau mỗi lần như vậy. Trung tâm lại ghi nhận
them được từ các cá nhân người dân đủ số tiền để tiếp tục hoạt động. Nhưng vì
điều đó, the Met không có đủ sức để cạnh tranh với những nhà hát opera được
chính phủ tài trợ ở các nước khác trong việc thu hút những ngôi sao opera
quốc tế vốn được trả lương rất cao.
Tuy
vậy, địa vị quốc tế mà một ca sĩ giành được khi có thể nói ra rằng “tôi đã
hát tại trung tâm the Met” cũng đủ để thu hút mọi người, trừ những người tham
lam nhất , tơi New York. Nguồn tài chính bấp bênh của the Met còn làm cho
trung tâm có được những người ủng hộ vô cùng trung thành, họ cảm giác rằng
đây mới chính là nhà hát opera của họ. Song, giá vé một đêm tại nhà hát the
Met thường rẻ hơn tại các nhà hát opera ngang hàng khác.
Tình trạng tương tự như vậy cũng sảy ra trong nghệ thuật múa ba lê. Danh
tiếng của nền nghệ thuật múa hiện đại của Mỹ có được không phải nhờ vào sự
năng đỡ và tài chính của chính phủ, Đúng hơn, nó xuất phát từ tính độc đáo và
tài năng của cá cá nhân như Graham và Cunningham, Joffrey và Tharp, và những
học trò của họ hiện đang giảng dạy và biểu diễn môn nghệ thuật này trê khắp
thế giới.
|
Poster
phim Cuốn theo chiều gió
|
Phim
ảnh
Thế giới phim ảnh và sản xuất phim của Mỹ;à một chủ đề rộng lớn tới mức nó
xứng đáng, và trên thực tế cũng đã, được in thành tuyển tập lớn. Tất nhiên,
người ta sẽ nghĩ ngay đến Hollywood cũng như
nhiều nhà đạo diễn và diễn viên vĩ đại đang tiếp tục được thu hút về đây và
thành danh tại đây.
Nhưng
sau đó, người ta cũng có thể nghĩ đến nhiều xưởng phim độc lập có mặt trên
khắp cả nước, nghĩ đến những chuỗi phim tài liệu và giáo dục cũng như những
bộ phim truyện, đến truyền thống xã hội chích hợp trong điện ảnh, và các khoa
điện ảnh trong các trường đại học như trường Đại học Nam Califonia (USC),
trường Đại học Califonia ở Los Angeles (UCLA), hay trường Đại học New York,
nơi đào tạo ra những nhà đạo diễn như Francis Ford Coppola, George Lucas…Tuy
nhiên, chỉ nói tới “nền điện ảnh Mỹ” không thôi thì sẽ tạo ấn tượng sai lệch.
Trong hơn 70 năm qua, phim Mỹ đã ngày càng được ưa chuộng trên khắp thế giới.
Các thế hệ lớn lên cùng với phim Mỹ và nhìn nhận về nước Mỹ cũng qua phim Mỹ.
Vô tuyến truyền hình và video cũng chỉ càng làm tăng thêm sự phổ biến về phim
Mỹ. Hầu hết cá hệ thống truền hình trên thế giới đều có một điểm chung, đó là
khối lượng lớn các bộ phim Mỹ họ chọn để trình chiếu trên màn ảnh nhỏ. Trong
nhiều trường hợp, nhưng bộ phim này, cho dù là cũ hay mới, được chiếu thường
xuyên hơn cả những bộ phim do các nước chủ nhà sản xuất.
Những bộ phim giải trí thành công rực rỡ, kể từ Cuốn theo chiều gió cho tới
Công viên kỷ Jula, được chú ý nhiều nhất. Nhìn vào giải thưởng được trao tại
các liên hoan phim quốc tế, ta cũng thấy phim Mỹ, với tư cách là một ngành
nghệ thuật, tiếp tục tạo được uy tín đáng kể. Ngay cả khi chủ đề cua phim
mang tính nghiêm túc, hay như họ nói là “có ý nghĩa”, phim Mỹ vẫn được ưa
chuộng.
Trong
những thập kỷ trước, những bộ phim nói về tác hại của rượu, về các cuộc ly
hôn, sự nguy hiểm của năng lượng và vũ khí hạt nhân, tình trạng tòi tàn của
khu trung tâm thành phố, những ảnh hưởng của chế độ nô lệ, cảnh ngộ của những
thổ dân Mỹ, sự nghèo đói, về tình trạng như nhập cư hay về hiện tượng đồng
tính luyến ái, tất cả đều được giải thưởng và được quốc tế cộng nhận. Và đồng
thời, số lượng người đi xem cũng rất đông.
Vào cuối những năm 1980 và đặc biệt là đâu những năm 1990, người ta chú ý
nhiều tới việc ngay cả khi châu Âu mạnh lên thì những phim sản xuất tại Mỹ và
trình chiếu ở châu Âu vốn ở vị trí hàng đấu còn trở nên được yêu chuộng hơn
nữa. Liên minh châu Âu (EU) đã ký những hiệp định không chính thức nhằm hạn
chế số lượng phim Mỹ chiếu trên truyền hình châu Âu. Và ở một số nước, người
ta đã thông qua những bộ luật nhằm cố gắng hạn chế số lượng phim chiếu ở rạp.
Người
châu Âu thường nêu ý kiến rằng điện ảnh ở châu Âu đại diện cho văn hóa, còn ở
Mỹ thì nó đại diện cho thương mại. Tuy nhiên, vào những thời kỳ, chẳng hạn
như trong vòng ba năm liền Mỹ liên tục giành được giải Cành cọ vàng tại Liên
hoan phim Cannes với các phim Tình dục, sự dối trá và cuốn băng hình của đạo
diễn Soderbergh (năm 1990) và Tên chỉ điểm Barton của anh em nhà Coen (năm
1991), thì lập luận trở nên yếu ớt. Tất nhiên, cả ba phim trên đều do các
hãng phim tự do chứ không phải do Hollywood
sản xuất.
Chúc mừng sinh nhật bạn
Vấn đề chủ yếu trong các cuộc thảo luận về văn hóa phổ thông của Mỹ cũng
chính là một trong những đặc trưng của nền văn hóa này: nó sẽ không là của
riêng Mỹ. Bất kẻ đó là phim, thức ăn, thời trang, âm nhạc, những môn thể thao
theo mùa hay là những tiếng nói lóng của Mỹ, tất cả đều nhanh chóng thuộc về
một nơi nào khác trên thế giới.
Có nhiều thuyết đã được đưa ra nhằm lý giải sao văn hóa phổ thông của Mỹ lại
có sức lôi cuốn đến như vậy, đặc biệt là từ những năm 1920. Một thuyết cho
rằng đó là do nó dược “quảng cáo” và tiếp thị trông qua những bộ phim, những
bản nhạc phổ thông, và gẩn đây là qua truyền hình của Mỹ.
Một thuyết khác giải thích do Mỹ là “dân tộc của dân tộc”, nền nghệ thuật và
văn hóa phổ thông của Mỹ dễ dàng “trở về nhà”, hấp dẫn đối với những truyền
thống và gu thưởng thức của các nước khác.
Lại có một thuyết khác, có lẽ là phổ biến nhất, cho rằng văn hóa phổ thông
của Mỹ được thế giới gắn liền với cái gọi là “tinh thần Mỹ” Bất kể lý do tại
sao nó lan truyền rộng khắp, văn hóa phổ thông của Mỹ thường được chấp nhận
môt cách nhanh chóng và sau đó được điều chỉnh cho thích hợp với nền văn hóa
ở nhiều nước khác nhau. Do đó, nguồn gốc và bản chất của Mỹ có thường nhanh
chóng bị lãng quên.
Các chuyên gia đã tranh luận hoài với nhau về lý do tại sao văn hóa phổ thông
của Mỹ lại phổ biến đến như vậy, và họ cũng đã nói tới những tác động quốc tế
của nền văn hóa này.
Ẩm thực Mỹ: từ Asparagus cho đến Zucchini
Quan điểm thình hành ở nước ngoài cho rằng người Mỹ sống bằng bánh nhân thịt
kẹp phomat, Coca cola và khoai tây chiên giòn là chính xác, cũng chính xác
như quan điểm người Mỹ cho rằng người Anh sống bằng chè, cá rán và khoai tây
chiên, người Pháp sống bằng rượu và tỏi, và người Nhật thì bằng tảo biển và
rượu Sake.
Không chỉ là một câu nói quen thuộc thường ngày, quan điểm trên còn xuất phát
từ một thực tế là rất nhiều trong số những thứ được quảng cáo là “thực phẩm
của Mỹ” ở nước ngoài đều là những món được chế biến nhại theo của Mỹ khá nhạt
nhẽo và vô vị. Kể cả những thứ cơ bản như nước sốt để ăn thịt nướng làm tại
Mỹ cũng khác nhiều loại nước sốt bán ở các siêu thị nước ngoài.
Mỹ có hai lợi thế về thực phẩm. Thứ nhất, là một nước nông nghiệp hàng đầu,
nước Mỹ luôn có sẵn nhiều loại thịt, hoa quả và rau tươi với giá khá rẻ. Đây
là một lý do giải thích tại sao bittet hay thịt bò rán có thể được coi là món
“đặc trưng” nhất của Mỹ; món này có nhiều hơn các món khác. Nhưng món gà quay
ngon của vùng phía Nam cũng là món có danh tiếng, cũng như món jambon hun
bằng khói gỗ hồ đào hoặc jambon tẩm đường, món gà tây, tôm hùm tươi, và nhiều
hải sản khác như cua hay trai.
Ở một đất nwowcscos nhiều vùng khí hậu khác nhau và nhiều khu vực trồng rau
quả, thì người Mỹ không cần phải nhập những thứ rau quả tươi như bưởi, cam,
chanh, dưa hâu…Điều này lý giải tại sao hoa quả và salat là những món ăn phổ
biến ở Mỹ.
Lợi thế thứ hai mà Mỹ có được – đó là những người nhập cư đã mang theo và còn
tiếp tục mang theo những món ăn truyền thống của đất nước và nền văn hóa của
họ khi tới Mỹ. Sự phong phú về thức ăn và kiểu ăn thật đáng kinh ngạc!
Ở Mỹ có bốn xu hướng đã tiếp diễn hơn một thập kỷ nay và dường như vẫn còn
tiếp tục. Xu hướng thứ nhất, đó là số lượng những tiệm ăn với giá phải chăng
phục vụ những món ăn đặc sản ngày càng gia tăng một cách đáng kể. Xu hướng
thứ hai là ngày càng có nhiều người Mỹ đi ăn hiệu thường xuyên hơn.Xu hướng
tồn tại lâu đời thứ ba, đó là có các chiến dịch vận động giữ gìn sức khỏe
được tiến hành trên toàn quốc nên người Mỹ hiện nay có chế độ ăn uống nhẹ hơn
rất nhiều.
Cuối
cùng là xu hướng sử dụng các món “ăn nhanh”, đây cũng là xu hướng quốc tế. Người
ta xếp những chuỗi dài để mua bánh Bizza, bánh nhân thịt, các mona ăn của
Mehico…Trong khi có nhiều người Mỹ cũng như người dân các nước khác không hài
lòng với xu hướng này và ngay cả các tiệm ăn cũng không thích món ăn này –
một điều có thể hiểu được – thì người ta lại thấy cả những người giàu và
người nghèo vẫn tiếp tục mua và xài “thức ăn nhanh”.
Và rồi cái “thức ăn nhanh” của người Mỹ cũng đã chu du vòng quanh thế giới đủ
để trở thành một phần quen thuộc trong bức tranh thường ngày, giống như những
khía cạnh khác của nền văn hóa Mỹ. Chẳng hạn, việc Hồng Công có quầy bánh
Pizza Hut là của hàng bán bánh bizza lớn nhất và hiệu bán đồ ăn Mc Donald
đông khách nhất, hay việc cách đây hơn 20 năm, gà rán Kentucky đã lại được ở
Nhậ Bản và hiện đã có khoảng 900 quầy đại lý chẳng phải là điều đáng ngạc
nhiên, ít nhất là đối với thế hệ trẻ. Điều mới là ở chỗ du khách nước ngoài
tới Mỹ có lúc phải ngạc nhiên khi thấy những thứ quen thuộc có trong nước họ,
và thốt lên: “Ồ, người Mỹ cũng có cả gà rán Kentucky!”.
Một Tân thế giới đã già hơn
Giữa “nền văn hóa cao” của Nhà hát Opera trung tâm và nền văn hóa ẩm thực tầm
thường nhưng rất đậm đà hương vị còn tồn tại một mảng văn hóa lớn, đó là nghề
thủ công và nghệ thuật truyền thống của Mỹ, những lĩnh vực mà ngày nay không
còn bị xem thường nữa. Bắt đầu từ những năm 1960 với phong trào trở về cội
nguồn và vứt bỏ đồ nhựa, nhiều ngành thủ công và nghệ thuật truyền thống đã
di phục hồi ở nhiêu nơi. rong số những ngành được nhiều người quan tâm hiện
nay có nghệ thuật gốm sứ, nghệ thuật chế biến các loại thủy tinh, nghề đan và
dệt thủ công, nghề chế tác đồ trng sức và đồ gỗ.
Ngày nay, ở vùng Ty Nam và Viễn Tây nước Mỹ có những độ ngũ làm gốm và thợ
dệt chuên nghiệp coa trình độ, họ bị ảnh hưởng mạnh bởi truyền thống của người
Mỹ da đỏ và truyền thống phương đông. Niềm say mê lâu đời của người Mỹ đối
với các các phẩm gỗ tự nhiên, có từ thời thực dân Anh đô hộ, lại một lần nữa
trở nên mãnh liệt, mọi đồ vật từ những nhạc cụ truyền thống làm bằng tay cho
tới những đồ dùng gia đình như chiếc ghế đu mảnh mai kiểu Mỹ đều được làm mới
trở lại.Trên khắp cả nước Mỹ, người ta tổ chức nhiều lớp dạy những kỹ năng và
các nghề thủ công như vậy.
Những vật liệu xây dựng truyền thống cũng có mặt trong nền kiến trúc thường
được gắn liền với phong cách sống “thân mật” tuyệt vời của vùng Tây Bắc Thái
Bình Dương, Bắc Califonia, vùng Tây Nam và vùng Núi đá của nước Mỹ. Nhiều
người Mỹ đã mệt mỏi hay chán ngấy “phong cách kiến trúc quốc tế”, và khi một
loạt các cuộc thử nghiệm phong cách hiện đại được tiến hành thì cũng là lúc
họ quay trở về với lối kiến trúc cũ.
Những
kiểu kiến trúc khu vực mang tính truyền thống hơn, những phong cách đơn giản
nhưng trang nhã của thực dân Anh ở vùng Đông Bắc, hay kiểu kiến trúc với hình
dáng mềm mại xây bằng gạch sống hòa nhập với đặc tính của vùng Tây Nam, tất cả
đều lấy lại được vị trí của mình.
Việc duy trì những ngôi nhà và những công trình xây dựng thời Victoria ở vùng Trung
Tây cũng đã trở nên quan trọng hơn. Công cuộc cải cách toàn diện khu trung
tâm Boston cũ
kỹ đang và đang không hề đi ngược lại danh tiếng của thành phố là một trung
tâm công nghệ và hướng về tương lai. Ở một chừng mực nào đó, sống giữa cái cũ
và cái mới như vậy cũng là một nét đặc trưng của Mỹ.
Bạn
đọc: Lê Oanh (Hà Nội
|