Hiển thị các bài đăng có nhãn Trống đồng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trống đồng. Hiển thị tất cả bài đăng

6 thg 7, 2014

Nguồn gốc trống đồng: Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc

GS Nguyễn Văn Hảo, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ cho hay, hiện nay nhiều nước Đông Nam Á cũng có trống đồng. Nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc trống đồng có niên đại lâu hơn cả. Việc phân định trống đồng của nước ta có trước, hay Trung Quốc có trước vẫn là vấn đề gây tranh cãi trong giới chuyên môn. Một số chuyên gia khảo cổ học phương Tây cho rằng, Việt Nam là cái nôi của trống đồng, người Trung Quốc đã lấy mẫu trống đó về thêm một số họa tiết để đúc lại. Nhưng theo quan điểm thống trị của Trung Quốc thì trống đồng Vạn Gia Bá ở Vân Nam có đầu tiên, ra đời thứ hai là trống Đông Sơn, thứ ba là trống Thạch Trại Sơn.
Nguồn gốc trống đồng: Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc
Nguồn gốc trống đồng: Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc
Để phản bác điều đó nhiều nhà nghiên cứu của nước ta đưa ra lập luận khẳng định Việt Nam là cái nôi của trống đồng. TS Hảo đồng ý với ý kiến Cụ Đào Duy Anh cho rằng, trống đồng Đông Sơn ra đời đầu tiên, sau đó người Hán mới mang về biến cái đó thành của mình. “Không phải tôi là người Việt mà tôi nhất trí như vậy mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra. Khi nói tới trống đồng người ta thừa nhận là nhạc cụ gõ, yếu tố nào quyết định là nhạc cụ thì đầu tiên là hình dáng, mặt trống gõ phát ra âm thanh, thân trống là phần cộng hưởng. Thứ hai, hình dáng trống cũng quyết định đến âm thanh. Thứ ba, chất liệu chế tạo trống. Ba yếu tố đó không chỉ tạo thành âm sắc, âm vực của chiếc trống mà nó có ý nghĩa, nó biểu hiện hồn phách của dân tộc có trống đó, dân tộc nào vẽ hoa văn của dân tộc đó. Hoa văn trên trống đồng là hoa văn thể hiện văn hóa, của dân tộc chế tạo ra hoa văn đó chứ không phải mỗi trống có hoa văn riêng”, GS Hảo cho biết.
Trong sách viết về nguồn gốc trống đồng của người Trung Quốc họ nói chiếc trống cổ do 6 dân tộc chế tạo, trong đó có người Lạc Việt. Số lượng trống tìm thấy là 46 chiếc. Điều đó là bất hợp lý, không thể 6 dân tộc lại chế tạo một loại trống.
Theo nghiên cứu của GS Hảo, chiếc trống Thạch Trại Sơn có hoa văn giống Đông Sơn, nhưng người Điền đã khắc thêm những hoa văn của họ, đè lên hoa văn của Đông Sơn. Trong hội nghị quốc tế tổ chức tỉnh Quế Lâm, Trung Quốc, khi TS Hảo phát biểu và đưa ra những giải thích khiến các nhà khoa học Trung Quốc cũng phải đồng ý. Chính một GS – Hiệu phó của trường Học viện Dân tộc học Quảng Tây tiến hành phân tích đồng vị chì chiếc trống ở Quý Huyện, Quảng Tây cũng khẳng định rằng, chiếc trống đồng cổ nhất của người Đông Sơn chế tạo. Bằng cách nào đó chiếc trống được đưa sang Trung Quốc và được thợ khắc thêm hoa văn trên trống.
Qua tìm hiểu của GS Hảo, những chiếc trống mà Trung Quốc nói là trống cổ của họ, được tìm thấy trong ngôi mộ của viên quan từng cai trị ở nước ta. Vì thế, ông ta mất đi, biết trống đồng quý đã bảo con cháu chôn cất trong mộ của mình. Giống như Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó lấy trống đồng về đúc ngựa. Do vậy, việc Trung Quốc cũng có những chiếc trống đồng bằng với niên đại ở nước ta là do họ đã mang về để sử dụng.
Những chiếc trống đồng Thạch Trại Sơn của người Điền có cách nay hơn 1 nghìn năm hoa văn tả thực hơn trống Đông Sơn, độ tả thực cao, chi tiết. Tay người đeo vòng, người mặc áo hoa kẻ sọc, có khuyên tai. Điều đó chứng tỏ người Điền lấy trống Đông Sơn cải tạo thành thùng đựng vỏ ốc, mặt họ phá đi đúc mặt mới làm nắp, dưới làm một cái đáy để bỏ vỏ ốc. Đối với người Điền thì ốc là tiền, những vỏ con ốc lợn được lấy từ biển của Ấn Độ, là những thứ rất quý. Những hoa văn gốc của trống như hình ảnh người mặc nửa trần, đội mũ lông chim đặc trưng người Đông Sơn đã bị cạo, khắc hình ảnh đặc trưng của người Điền.
Những lý giải của GS Hảo về trống đồng cổ của ông được Hội đồng nghiên cứu trống đồng Trung Quốc cũng phải công nhận là đúng. Tập luận văn nghiên cứu về trống đồng của GS Hảo hiện được Bảo tàng khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc ghi nhận và lưu giữ tại đây. Nhiều người trong giới chuyên môn đã công nhận Việt Nam là cái nôi của trống đồng.
(Theo Kiến Thức)

Tiếng trống đồng Đông Sơn ở Indonesia


Cập nhật: 10:08 GMT - thứ ba, 24 tháng 9, 2013


Hai năm trước, khi đến thăm Bảo tàng Quốc gia Malaysia ở Kualar Lumpur, tôi đã thấy nhà rông, cồng chiêng và cột nhà mồ như ở Tây Nguyên, Việt Nam và hiểu rằng văn minh Đông Nam Á cổ đã trải rộng thế nào ở châu Á lục địa.
Nhưng tuần qua, khi vào Bảo tàng Quốc gia Indonesia giữa thủ đô Jakarta thì tôi khá ngạc nhiên khi thấy bốn chiếc trống đồng Đông Sơn (Dongson kettledrum) trưng bày ở đó trong phần về di sản văn hóa nước này.
Với các hình mặt trời và cả chim Lạc giống hệt như ở trống ở Bảo tàng Lịch sử tại Hà Nội, trống đồng tại Indonesia, mà họ gọi là gendang, đã được tìm thấy ở các đảo xa ngoài Thái Bình Dương.
Một trong số đảo đó là East Nusa Tengarah (cách TPHCM 2600 km đường chim bay), nơi người ta tìm được một chiếc trống đồng năm 1828.
Nhưng ngoài ba trống đồng có hình người chèo thuyền, chim và thú như trống ở Việt Nam, chiếc thứ tư có hoa văn dạng khác hẳn, cho thấy một sự dịch chuyển, biến đổi về văn hóa trống đồng.
Ngoài khu vực đồng bằng sông Hồng, hàng trăm chiếc trống thuộc nhiều giai đoạn khác nhau đã được tìm thấy ở Nam Trung Hoa, Lào, Thái Lan, và tất nhiên là ở các hải đảo.
Ở đây tôi không muốn đi vào câu chuyện của giới khảo cổ rằng trống đồng đã có ở đâu, ai làm ra...mà chỉ muốn chia sẻ một chút cảm nghĩ về thái độ nhìn lịch sử của người Indonesia.

Giống và khác

Gốm sứ Việt Nam đã đến Indonesia qua nhiều thế kỷ và đóng góp vào văn hóa ở đây
Như câu chuyện trống đồng Indonesia cho thấy, hiện còn rõ dấu tích của một nền văn minh bản địa đã trải rộng từ vùng lục địa Đông Nam Á sang các hải đảo, trước khi hai dòng văn minh lớn khác là Trung Hoa và Hồi giáo ập đến.
Tại Bảo tàng Quốc gia Indonesia, người ta viết rõ rằng quốc gia mà nay có gần 250 triệu dân, là do người chủng Mongoloid từ châu Á lục địa ra và các nhóm Melanesian và Austronesian từ vùng hải đảo tới mà thành.
Sự giao lưu, hòa trộn này có trùng hợp với truyền thuyết '50 con lên rừng, 50 con xuống biển' ở Việt Nam?
Lời thuyết minh cũng nói chừng 6000 năm trước, các nhóm từ lục địa bắt đầu thống lĩnh các đảo mà người Indonesia gọi chung là Nusantara, lập ra các quốc gia sau đó theo Ấn giáo và Phật giáo, trước khi đạo Hồi tràn đến.
Ở thời kỳ tiền Hồi giáo tại Indonesia hay trước Khổng giáo ở Việt Nam, hẳn các tộc người bản địa có trao đổi văn hóa mạnh mẽ, liên tục, nếu không nói là cùng chung nhiều yếu tố từ ngôn ngữ, ăn mặc đến thờ cúng mà các hình trên trống đồng chỉ là một biểu hiện còn thấy được.
Và cứ thể mà suy ra thì nhóm Việt (Kinh) ở Việt Nam hiện nay không phải nhóm thừa kế duy nhất về văn hóa từ đại gia đình Đông Nam Á đó.
Nhưng người Việt vì ở tuyến đầu chống lại sức ép từ Phương Bắc, dù giữ được độc lập đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán sâu rộng hơn hẳn các dân tộc Đông Nam Á khác và phần nào tiếp nhận cả tư duy độc tôn kiểu Hán.
Trái lại, tác động của Trung Quốc đến các đảo Indonesia xa xôi chưa bao giờ mạnh như ở Đông Dương mà chỉ là một trong nhiều dòng văn hóa du nhập vào đây.
Chữ Hán cũng xuất hiện trên các đồ tế tự nhập vào Indonesia bởi người gốc Hoa nhưng sắc dân này cũng thường bị đồng hóa vào các nhóm Phật giáo bản địa và ngôn ngữ Hán chưa bao giờ có vị trí gì cao, theo lời giới thiệu ở Bảo tàng Quốc gia Indonesia.
Bên cạnh dấu ấn từ Ấn Độ và thế giới Hồi giáo luôn rất mạnh và rõ rệt, Bảo tàng này cũng ghi nhận bốn dòng văn hóa ảnh hưởng đến nghệ thuật gốm sứ của họ: Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Thái Lan.
Hình chim Lạc trên một chiếc trống đồng Indonesia
Điều này hẳn làm người Việt Nam cảm thấy tự hào nhưng cũng khiến bạn tự hỏi vì sao trong cách trình bày về lịch sử, trong người Việt luôn có xu hướng không rộng rãi và bao dung bằng người Indonesia.
Người Việt thường thích nhấn mạnh đến sự riêng biệt, độc tôn của mình mà làm nhẹ đi nguồn gốc chung với nhiều dân tộc khác dù trên thực tế văn hóa chỉ lớn được qua sự tiếp thu, hội nhập và giao lưu.

Không độc quyền

Sau khi giành độc lập, người Java đông nhất tại Indonesia (hiện có 100 triệu) tự nguyện không chọn tiếng Java mà chấp nhận dùng tiếng Bahasa Indonesia, gốc Mã Lai làm ngôn ngữ quốc gia để thống nhất 300 dân tộc khác nhau trên hàng nghìn hòn đảo.
Nhưng dù dùng chung Bahasa Indonesia, các nhóm sắc tộc Indonesia ngày nay vẫn có quyền học tiếng mẹ đẻ của mình ở trường đến hết tiểu học.
Còn ở Việt Nam, nước chính thức có trên 50 nhóm sắc tộc, tiếng Kinh chiếm ví trí độc tôn trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa, xã hội và các ngôn ngữ thiểu số có nguy cơ bị mai một, thậm chí biến mất trong tương lai.
Tính bao dung của Indonesia còn nổi bật lên khi nhìn vào báo chí và hệ thống chính trị.
Dù 86% dân số theo Hồi giáo, các đạo khác Phật, Thiên Chúa giáo...có vị trí được công nhận trong hiến pháp nước cộng hòa.
Các nhà báo Indonesia quan tâm nhiều đến Việt Nam
Hiện nay, đôi khi vẫn có va chạm giữa tín đồ Hồi giáo phái Sunni và thiểu số phái Shia nhưng đây không phải là đề tài cấm kỵ và báo chí nói đến nó liên tục.
Từ sau khi ông Suharto sụp đổ năm 1998, sau một thời 'tập sự dân chủ', nay Indonesia đã có một nền chính trị đa nguyên khá sôi động, và năm 2014 sẽ có kỳ bỏ phiếu khép lại hai nhiệm kỳ của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono.
Đến Jakarta trước năm bầu cử cả quốc hội và tổng thống nên tôi được nghe các nhà báo ở đây bàn thảo rất nhiều về các ứng viên tiềm năng, các đảng khác nhau, về chuyện tham nhũng, chuyện kinh tế, giao lưu khu vực và cơ hội của Indonesia.
So với nhiều nơi khác ở châu Á, tôi thấy các nhà báo bạn không chỉ cởi mở, trẻ trung, thạo tiếng Anh mà còn rất quý Việt Nam.
Không ít biên tập viên, phóng viên đã từng sang Việt Nam dự các sự kiện thể thao, chính trị ASEAN, và trận đá bóng Cup AFF giữa Việt Nam và Thái Lan tuần rồi cũng trở thành chủ đề bàn tán của các đồng nghiệp trong văn phòng BBC Indonesia ở Jakarta vào sáng hôm sau.
Ngồi ăn bánh chưng chay với các bạn Indonesia, cũng thứ bánh bằng gạo nếp, nhân đỗ xanh, quấn lá chuối nhưng gói mỏng hơn bánh ở Việt Nam, tôi cảm được sự tương đồng văn hóa vẫn còn từ một thời kỳ xa xưa với xứ sở và con người ở đây.
Nhưng hai xã hội này có vẻ đang chọn hay con đường khác nhau.
Indonesia đã và đang thể hiện vai trò đàn anh trong ASEAN, là cầu nối giữa Thế giới Hồi giáo và các cường quốc Phương Tây và có tham vọng thành nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới vào năm 2030.
Việt Nam cũng đang nỗ lực đóng một vai trò quan trọng về an ninh vùng nhưng còn thiếu tham vọng ở tầm khu vực cho xứng đáng với số dân và khao khát của giới trẻ.
Trở lại chuyện trống đồng, người Indonesia đang tự hào rằng trên đảo Selayar của họ hiện có chiếc trống đồng Đông Sơn, cũng thuộc loại Heger I, 'to nhất thế giới'.
Indonesia coi trọng quan niệm di sản văn hóa mở
Tranh cãi ai kế thừa cái gì ở thời kỳ chưa hình thành quốc gia dân tộc, như cuộc tranh luận Việt - Trung rằng đâu là cái nôi của trống đồng, dễ trở nên vô nghĩa nếu ta tiếp thu tinh thần vươn ra biển xa của các chủ nhân trống đồng hàng nghìn năm trước.
To lớn nhưng vẫn bao dung trong đa dạng là tinh thần Indonesia ngày nay.
Có thể vì thái độ với quá khứ hẹp hơn các quốc gia hải đảo nên Việt Nam chưa thể 'lướt sóng' ngoài đại dương được?