Hiển thị các bài đăng có nhãn tai biến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tai biến. Hiển thị tất cả bài đăng

11 thg 10, 2023

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO - ĐỘT QUỴ - TAI BIẾN - LIỆT - DI CHỨNG SAU TAI BIẾN " MÀ MỌI NGƯỜI CẦN LƯU LẠI

 NHỮNG ĐIỀU GAN RUỘT CỦA TÔI VỀ "

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO - ĐỘT QUỴ - TAI BIẾN - LIỆT - DI CHỨNG SAU TAI BIẾN " MÀ MỌI NGƯỜI CẦN LƯU LẠI
....... những kiến thức rất lạ....
..............những điều chưa ai chia sẻ... hoặc không có trên mạng
..................tuy giản đơn.....nhưng lại rất thiết thực ,hữu ích..... Rất hiệu quả đó chớ xem thường
>>> Vốn dĩ sau vụ 2 nghệ sỹ nổi tiếng bị đột quỵ nói riêng và hàng ngàn ca đột quỵ khác mỗi khi trời giá lạnh , tôi cũng đã định đua theo thiên hạ viết 1 bài để mọi người biết cách phòng bệnh này ,vậy mà lướt facebook 1 tí đã thấy vài trăm bài của các thầy khác rồi , hôm nay tôi chia sẻ nhưng điều mới hơn , thú vị và hưu ích hơn ....
1. PHÒNG ĐỘT QUỴ PHÒNG TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
- cam thảo 5-6g, cành dâu ta đã sao vàng hạ thổ 30g , 2 thứ đun kỹ lấy nước uống mỗi ngày , nên duy trì thói quen này thay trà hoặc nước lọc , có thể dùng quanh năm , nhất là ở người già , người có bệnh tim mạch
>>>> cam thảo có tác dụng thanh nhiệt giải độc , cành dâu có tác dụng khu phong , thông lạc ,giúp lưu thông khí huyết , trị tắc nghẽn tê bì chân tay cơ xương khớp rất hiệu quả , nên có thể sử dụng lâu dài để phòng bệnh tai biến cũng như bệnh xương khớp
2. XỬ LÝ CẤP CỨU KHI NGƯỜI THÂN BỊ ĐỘT QUỴ
- dùng hạt tiêu loại tốt 3-5gram ( tiêu bắc - tiêu sọ)
- dùng hạt cây ngũ trảo chân chim 3-5g ,nếu không có thì dùng lá tươi cũng được tầm 20-30g,
>>>>2 thứ trên giã nát ,đổ nc nóng vào khuấy đều uống hoặc đun sôi lên uống ngay lập tức
3. ĐIỀU TRỊ DI CHỨNG SAU TAI BIẾN ĐỘT QUỴ
- Cách 1 : dùng dấm ngon 2-3 lít , trứng gà ta con so 20 quả , rửa sạch trứng gà rồi cho vào hũ bình đổ dấm vào , ngâm it nhất 1 tuần thì lấy ra sử dụng , mỗi lần lấy 20ml dung dịch trên ,cùng với 10ml mật ong ,20-30ml nc sôi ,khuấy đều uống , ngày 2 lần , dùng hết chỗ ngâm trên là 1 liệu trình , cách này trị di chứng sau tai biến liệt nửa người rất hiệu quả !
- Cách 2 : dùng hạt thầu dầu xanh hoặc tía 20-30g cho vào nồi bằng đồng , nhớ là pai bằng đồng , cùng với 50-100ml rượu trắng , đun chín hạt rồi uống trước khi đi ngủ , nên dùng liên tục trong 15-30 ngày ! cách này dùng hiệu quả với những người bị đột quỵ mà nói không rõ , phát âm không chuẩn ,chân tay không có cảm giác !
4. ĐIỀU TRỊ MÉO MIỆNG ĐƠN GIẢN
- vỏ quất , đúng rồi .... chính là vỏ quất , kiếm thật nhiều , bóc vỏ ,loại quất vỏ dày ,phơi khô sao vàng hạ thổ , hằng ngày đun nước uống và ăn cả bã !!! dùng hằng ngày tới khi khỏi
>>>> vỏ quất có tác dụng lí khí hóa đàm ,trừ khong trừ thấp ,nên dùng rất hiệu quả với những trường hợp liệt thần kinh số 7 , chỉ với cách này mà một cháu bé học cấp 3 đã khỏi chỉ sau 3 ngày uống
kính chia sẻ !!!!
---- TÁC GIẢ : HOÀNG KỲ ----

23 thg 1, 2015

'Thần y' rời núi cứu người và bài thuốc 'thách thức tử thần'

VTC News) - PV đã tìm lên vùng biên giới xa xôi, diện kiến vị lương y bí ẩn này, những mong giải mã để bạn đọc có thông tin.

Kỳ 1: Đi khắp thế giới, rồi về Cao Bằng

Thời gian gần đây, nhiều gia đình có người thân bị tai biến xôn xao bởi thông tin về một vị lương y người Mông ở tận vùng biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng, có biệt tài chữa tai biến mạch máu não, giúp người liệt giường chiếu đi lại được.

Nhiều gia đình đã tìm lên lấy thuốc, thậm chí đưa cả người thân vào cáng rồi chở lên non xanh, hòng gặp được “thần y”, những mong cứu mạng người thân. PV đã tìm lên vùng biên giới xa xôi, diện kiến vị lương y bí ẩn này, những mong giải mã để bạn đọc có thông tin.

 
Thảo dược kỳ quái:
Chủ nhật, chợ phiên Bảo Lạc người kín như nêm. Đồng bào Mông, Dao, Lô Lô, với váy áo rực rỡ, từ khắp núi cao rừng thẳm tụ họp về trung tâm huyện.


Hỏi han ở trung tâm huyện, đủ biết tiếng tăm của lương y Sùng A Tú thật vang xa. Gần như người dân ở thị trấn Bảo Lạc đều biết đến ông, với những câu chuyện mang màu sắc huyễn hoặc. Ông như một vị thần cứu thế, như thể từ trời cao cử xuống.

Bà chủ quán phở gà bảo: “Trước ông lang này ở núi cao lắm, tít biên giới, đi bộ cả buổi mới tới nhà cơ. Nhưng giờ bệnh nhân nhiều quá, nên ông ấy chuyển xuống chân núi rồi, trên đường đi đồn biên phòng ấy. Chú cứ đi độ vài km, thấy cái biển ghi Sùng A Tú thì đến. Dọc đường chẳng có nhà cửa nào đâu, có mỗi nhà Sùng A Tú thôi”.

Con đường ra biên cương dốc ngược như đường lên trời. Bản Nà Tao (Cô Ban, Bảo Lạc, Cao Bằng) nằm bên sông Gâm, dựa lưng vào những dãy núi sừng sững. Ngay bên đường, có tấm biển ghi: “Thầy thuốc Sùng A Tú”, cùng mũi tên trỏ vào vách núi.
'Thần y' rời núi cứu người và bài thuốc 'thách thức tử thần'
Lương y Sùng A Tú đi lấy thuốc về 
Quả thực, có khu nhà hiện ra giữa rừng xanh bát ngát. Ngoài ngôi nhà chính, thì bao quanh là dãy nhà lúp xúp. Người ra, người vào lố nhố.

Tôi đến từ 7 giờ sáng, nhưng đã có mấy chục người ngồi ngoài sân uống nước. Những đống cây thuốc tươi nguyên chất ngất mới được gùi về.

Mọi người bảo, thầy thuốc Sùng A Tú đã đi chợ huyện từ 5 giờ sáng. Ở vùng núi cao biên cương này, chợ chỉ họp mỗi tuần một lần, nên già trẻ, gái trai đều bỏ hết việc để chơi chợ, trừ khi có sự kiện cháy nhà, chết người thì họ mới ở nhà. Thầy thuốc Sùng A Tú cũng vậy, cứ chợ phiên là phải đi chơi, gặp gỡ bạn bè. Cả nhà thầy thuốc đều đi chơi chợ.

Tôi vòng ra phía chái nhà. Đó là một “bệnh viện dã chiến”, được dựng bằng gỗ, lợp phibrôximăng. Có tới cả chục chiếc giường, mỗi người nằm một giường, không phải chung chạ như những bệnh viện dưới Hà Nội.

“Bệnh viện dã chiến” chia làm 3 phòng, gồm một phòng bệnh nhân, một phòng tắm thuốc và một phòng bếp dùng để đun thuốc, nấu nướng thức ăn.
'Thần y' rời núi cứu người và bài thuốc 'thách thức tử thần'
Kho thuốc sau nhà lương y Sùng A Tú 
Thực ra, đây là khu vực nội trú cho những bệnh nhân ở xa, đến tận nhà ông lang Sùng A Tú để được tắm thuốc, đắp thuốc, uống thuốc trị bệnh. Nhìn cảnh bệnh nhân nằm, ngồi la liệt, còng queo thật thảm thương. Những bệnh nhân tìm lên đây đều bị tai nạn thảm khốc, hoặc tai biến một sống mười chết.

Trong vai người nhà bệnh nhân đi lấy thuốc, tôi lân la trò chuyện với bệnh nhân và người thân, để thu thập thông tin khách quan về ông lang Sùng A Tú.

Ngồi trên chiếc giường ngay lối ra vào là người đàn ông dáng thấp đậm, đầu trọc, khuôn mặt lầm lì, ít nói. Ông ngồi bám thành giường, thi thoảng phóng ánh mắt nhìn về phía những dãy núi xa xăm.

Chăm sóc ông là một người đàn ông, dáng vẻ cán bộ, và một người phụ nữ ăn mặc sang trọng.
'Thần y' rời núi cứu người và bài thuốc 'thách thức tử thần'
Người nhà bệnh nhân tự nấu thuốc 
Người đàn ông xắn tay áo chăm sóc người bệnh giới thiệu là em trai của bệnh nhân. Anh bảo rằng, người anh trai là phó tổng giám đốc của một công ty lớn của nhà nước ở Việt Trì. Việc ông anh bị tai biến, chỉ một số người ở công ty biết. Do vậy, dù bị tai biến, nằm liệt một năm nay, song ông vẫn… đương chức. Vì thế, tác giả xin được giấu tên vị bệnh nhân này.

Hồi năm ngoái, vừa từ nhà tắm ra, anh Nguyễn Quang T. đột nhiên bủn rủn tay chân, rồi ngã quỵ. Gia đình lập tức đưa ra Bệnh viện đa khoa Phú Thọ cấp cứu. Bệnh viện tỉnh chuyển về Bệnh viện Việt Pháp. Từ đây, anh T. được chuyển đến tất cả các chuyên khoa hàng đầu ở Bệnh viện Bạch Mai, 108, 103, Nhiệt đới, Việt Đức…

Gia đình cũng đã đưa sang cả Singapore, Mỹ, nhưng các bác sĩ với máy móc hiện đại cũng bó tay. Sau gần 1 năm điều trị, anh T. vẫn không tỉnh, sống hoàn toàn thực vật.

Canh bạc cuối cùng, gia đình đã đưa sang Trung Quốc, sử dụng phương pháp làm sạch máu tụ trong não. Đây là phương án mạo hiểm, một sống 9 chết. Các chuyên gia hàng đầu Trung Quốc đã vào cuộc và gia đình tốn kém thêm 3 tỷ đồng.

'Thần y ' trị gút 
Thế nhưng, kết quả chỉ là não bộ sạch máu tụ, chứ không hoạt động trở lại bình thường. Không còn cách nào khác, gia đình đưa về Việt Nam, chấp nhận để anh T. sống đời thực vật.


Gia đình có điều kiện, không tiếc tiền của, nhưng phương pháp điều trị hiện đại nhất thế giới đều đã sử dụng, mà không ăn thua gì, đành phải tìm niềm tin ở những ông lang quê nhà.

Qua giới thiệu, gia đình biết đến một ông lang người Mông, chuyên chữa tai biến ở Cao Bằng. Dù không tin lắm, song gia đình cũng cử người lên tận nơi dò hỏi, rồi mua thuốc về dùng thử.

Mang bao tải thuốc to tướng về, toàn là những cây rừng băm chặt thô sơ, những người thân không tin lắm, nhưng không còn phương cách nào nữa, đành phải dùng thử.

Theo hướng dẫn của ông lang Sùng A Tú, hàng ngày, người thân đun nồi nước to tướng, đổ vào bồn tắm, rồi khênh anh T. đặt vào, ngâm cả tiếng đồng hồ trong nước thuốc. Ngoài ra, còn bóp rượu ngâm thuốc, uống thuốc sắc và một chén rượu ngâm thuốc mỗi ngày.
'Thần y' rời núi cứu người và bài thuốc 'thách thức tử thần'
Lương y Tú chăm sóc bệnh nhân 
Điều kỳ lạ đã xảy ra: Từ một người sống hoàn toàn thực vật, không biết gì ngoài há miệng ăn, anh Nguyễn Quang T. đã có chuyển biến tích cực. Cái lưỡi cứng đờ đã mềm ra và nói được mấy từ; đang nằm liệt bất động thì đã trở được mình dậy, bám vào thành giường lần đi nhẹ nhàng.

Thấy chuyển biến, tin vào phương thuốc thần kỳ của ông lang người Mông, gia đình đã đưa anh T. lên tận vùng biên giới để được ông lang Sùng A Tú điều trị trực tiếp.

Ở đây, ngoài việc được ngâm thuốc, uống thuốc, anh T. còn được ông lang Sùng A Tú trực tiếp bóp thuốc cho hàng ngày, thổi hương thuốc vào các huyệt đạo ở lưng. Chính vì thế, bệnh tình anh T. tiếp tục chuyển biến tốt hơn hẳn. Anh đã nói được, nhúc nhắc đi lại được. Đại gia đình đang tràn trề hi vọng anh T. hồi phục sau 1 năm sống cuộc đời thực vật. Họ coi ông lang Sùng A Tú như vị cứu tinh.

Còn tiếp…

3 thg 4, 2014

Những chú ý khi sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn


ST

TPO - Những năm gần đây, những người có bệnh tim mạch thường mách nhau tìm mua loại thuốc có giá rất đắt (khoảng 1 triệu đồng 1 viên) gọi là “An cung ngưu hoàng hoàn”.

Nghe nói, thuốc này cấp cứu tai biến mạch máu não rất tốt, mỗi gia đình đều cần dự trữ ít nhất một viên phòng khi nguy cấp, ngoài ra thuốc còn có thể dùng để dự phòng tai biến mạch máu não...
Xin cho biết: Khi sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn cần chú ý những vấn đề gì? Thuốc có độc và tác dụng phụ nguy hiểm?
(Câu hỏi của nhiều độc giả)
+ Đáp:
Nhờ có tác dụng nhanh và hiệu quả rõ rệt, “An cung ngưu hoàng hoàn” (ACNHH) đã trở thành một loại thuốc quý của Đông y, dùng để cấp cứu trong các trường hợp bị hôn mê, rối loạn thần chí trong các bệnh sốt cao, viêm não, tai biến mạch máu não ... ACNHH vốn là bài thuốc cổ, do danh y Ngô Cúc Thông, đời Thanh (Trung Quốc) bào chế và được ghi trong sách “Ôn bệnh điều biện”; Thành phần của ACNHH gồm:
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.
Ngưu hoàng 30g, uất kim 30g, tê giác 30g, hoàng cầm 30g, hoàng liên 30g, hùng hoàng 30g, sơn chi 30g, chu sa 30g, mai phiến 7g, xạ hương 5g, trân châu 15g. Tất cả tán bột thật mịn, luyện với mật làm viên, mỗi viên 3g, lấy vàng lá làm áo, bao sáp. 
Từ nhiều năm nay, vì tê giác đã trở thành động vật quý hiếm, đưa vào sách đỏ, cấm săn bắt, nên sừng tê giác đã được thay bằng bột sừng trâu cô đặc, mà vẫn có tác dụng tốt như khi dùng tê giác.
Theo Đông y, ACNHH có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trấn kinh, khai khiếu, hoát đàm (trừ đờm). Chủ trị nhiệt tà nội hãm tâm bào trong ôn nhiệt bệnh, đàm nhiệt nghẽn tắc tâm khiếu, dẫn đến các triệu chứng: sốt cao phiền táo, hôn mê, nói sàm, hoặc lưỡi rụt, tay chân lạnh toát. 
Do tác dụng cấp cứu nhanh và hữu hiệu, từ xưa thuốc đã được xếp hàng đầu trong “Ôn bệnh tam bảo” (3 loại thuốc quý chữa ôn bệnh, bao gồm ACNHH , “Chí bảo đan” và “Tử tuyết đan”).
Trong Đông y, “cung” chỉ “Tâm bào cung”. “Tâm bào” là cơ quan bọc ngoài tâm (tim). Ôn nhiệt tà độc khi xâm phạm vào tâm, trước hết tác động đến tâm bào. ACNHH là thuốc có khả năng giải trừ tình trạng “đàm nhiệt nội hãm tâm bào”, dẫn tới hôn mê, thần minh nhiễu loạn (rối loạn thần kinh trung ương), tê liệt, nói sàm, chân tay quyết lạnh ... Thuốc có tác dụng giải trừ bệnh lý ở tâm bào (an cung) và thành phần quan trọng nhất là “ngưu hoàng”, nên được đặt tên là “An cung ngưu hoàng hoàn”.
Những năm gần đây ACNHH được sử dụng để cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não rất hiệu quả và nhanh chóng. Nhiều người bị hôn mê, tiên lượng rất xấu, uống ACNHH đã tỉnh lại và sức khỏe dần dần hồi phục. Tuy nhiên, ACNHH không phải là “thần dược chữa đột quỵ” và không thể áp dụng trong tất cả các trường hợp đột quỵ – tai biến mạch máu não. 
Đột quỵ tương ứng với bệnh “Trúng phong” trong Đông y. Trúng phong là bệnh có bệnh cơ và triệu chứng hết sức phức tạp. Căn cứ vào nguyên nhân và chứng trạng cụ thể, Trúng phong được Đông y chia thành những loại hình (thể bệnh) khác nhau; đối với mỗi thể bệnh cần áp dụng những phương pháp, bài thuốc thích hợp, mới có thể mang lại hiệu quả mong muốn. 
Nói cụ thể hơn, trên lâm sàng Trúng phong được phân chia thành hai loại hình (thể bệnh) lớn: Trúng kinh lạc và Trúng tạng phủ. Mỗi thể lớn lại được phân thành một số thể nhỏ. Trúng tạng phủ được chia thành 2 thể nhỏ: “Nhiệt bế” (Dương bế) và “Hàn bế” (Âm bế). Thuốc ACNHH chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp “Nhiệt bế” – Với các triệu chứng chính: Đột nhiên hôn mê bất tỉnh nhân sự, hai hàm răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai tay nắm chặt, thân và tứ chi co cứng; Mặt đỏ người nóng, thở thô, miệng hôi, phiền táo , rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền hoạt. 
Nói chung, khi sử dụng ACNHH ít nhất cần chú ý đến bốn vấn đề sau:
1. Chống chỉ định 1: Hôn mê kèm theo các triệu chứng: Mặt trắng bệch, môi tái nhợt, nằm yên bất động, rêu lưỡi trắng nhớt, tay xòe, chân tay lạnh, mồ hôi trán dính như dầu, chất lưỡi trắng nhớt, ... đó là “hàn bế”; không được uống ACNHH mà cần dùng loại thuốc có tính năng “ôn khai”, như “Tô hợp hương hoàn” . ACNHH là bài thuốc được lập ra để chữa trường hợp hôn mê do “nhiệt bế”, nếu sử dụng đối với “hàn bế” sẽ khiến cho bệnh càng thêm trầm trọng..
2- Chống chỉ định 2: Trong quá trình sử dụng, nếu xuất hiện triệu chứng sợ rét, chân tay lạnh, sắc diện trắng nhợt, vã mồ hôi lạnh, mạch đập yếu, ... , cần lập tức ngừng sử dụng. Đó là hiện tượng Đông y gọi là từ “bế chứng” chuyển sang “thoát chứng”.

3. Đối với phụ nữ mang thai: Trong thành phần của ACNHH có xạ hương và ngưu hoàng là những vị thuốc dễ gây trụy thai. Do đó, phụ nữ đang mang thai cần rất thận trọng khi sử dụng.
4. Không sử dụng quá liều: Trong thành phần của ACNHH có chu sa và hùng hoàng là hai vị thuốc có tính độc. Chu sa có thành phần chính là sunfua thuỷ ngân thiên nhiên (chứa thuỷ ngân (Hg) 86,2% và sunfua (S) 13,8%); Hùng hoàng có thành phần chủ yếu là asen sunfua (AsS) trong đó asen chiếm chừng 70,1%, sunfua 29%. Do đó không được sử dụng với liều cao hoặc sử dụng dài ngày ACNHH. Người chức năng gan thận không kiện toàn sử dụng càng cần thận trọng.
Lương y Hư Đan Tri Thức Trẻ
An cung ngưu hoàng hoàn là gìAn cung Ngưu hoàng hoàn là thuốc cấp cứu Đông y truyền thống, được dùng cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não cực kì hiệu quả và nhanh chóng, nhiều người bị hôn mê, nằm viện mấy ngày không tỉnh tiên lượng rất xấu, uống An Cung Ngưu Hoàng Hoàn đã tỉnh lại và hồi phục.
Thành phần : Ngưu hoàng , Tê giác (hoặc Thuỷ tê giác),  Trân châu (Ngọc trai), Hoàng liên, Chu sa, Hùng hoàng, hoàng cầm, sơn chi, xạ hương, uất kim.....
 ACNHH là gì?
Là phương thuốc do danh y Ngô Đường, tự Cúc Thông, người đời Thanh (Trung Quốc), đại biểu trọng yếu của học phái ôn bệnh, sáng chế, được ghi trong sách “Ôn bệnh điều biện” nổi tiếng của ông với thành phần gồm: ngưu hoàng 1 lạng, uất kim 1 lạng, tê giác 1 lạng, hoàng cầm 1 lạng, hoàng liên 1 lạng, hùng hoàng 1 lạng, sơn chi 1 lạng, chu sa 1 lạng, mai phiến 2 tiền 5 phân, xạ hương 2 tiền 5 phân, trân châu 5 tiền. Tất cả tán bột thật mịn, dùng mật làm hoàn, mỗi hoàn 1 tiền, lấy vàng lá làm áo, bao sáp.

Công dụng của ACNHH ra sao?
Theo dược học cổ truyền, ACNHH có công dụng thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiếu, dục đàm. Chuyên trị ôn nhiệt bệnh, nhiệt tà nội hãm tâm bào, đàm nhiệt ủng bế tâm khiếu dẫn đến sốt cao phiền táo, thần hôn thiềm ngữ (hôn mê, rối loạn ngôn ngữ) hoặc thiệt kiển chi quyết (lưỡi rụt, tay chân giá lạnh), trúng phong khiếu bế, tiểu nhi kinh quyết thuộc đàm nhiệt nội bế.
Đây là một trong ba phương thuốc lương khai trọng yếu (lương khai tam bảo hay ôn bệnh tam bảo) cùng với chí bảo đan và tử tuyết đan, là một trong những dược vật cấp cứu hữu hiệu của Y học cổ truyền. “Cung” là chỉ tâm bào, tâm bào là cái màng ở ngoài bọc lấy tim; ôn nhiệt độc tà nội hãm, khi xâm phạm vào tâm, trước hết là tác động đến tâm bào. Nếu nhiệt tà quá thịnh sẽ làm nhiễu loạn thần minh mà dẫn đến tình trạng thần hôn thiềm ngữ. ACNHH có đủ khả năng thanh hóa đàm nhiệt nội hãm tâm bào, nhiệt thanh đàm hóa thì tâm thần tất an, vì thế mà gọi là “an cung”.
Trong phương, ngưu hoàng, tê giác và xạ hương có công dụng thanh tâm tả hỏa giải độc, dục đàm khai khiếu, tức phong định kính, là quân dược; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi thanh nhiệt tả hỏa giải độc; uất kim tán tà hỏa; mai phiến phương hương khứ uế, thông khai bế; chu sa, trân châu và vàng lá trấn tâm an thần; mật ong hòa vị điều trung.
Tác dụng dược lý của ACNHH là gì?
Tác dụng trấn tĩnh và chống co giật
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, ACNHH khi cho chuột uống hoặc tiêm vào trong ổ bụng đều làm cho chúng giảm thiểu hoạt động tự chủ, xuất hiện hiện tượng yên tĩnh, làm tăng tác dụng ức chế hệ thống thần kinh trung ương và kéo dài thời gian gây ngủ của phenobarbital và pentothal. ACNHH còn chống tác dụng hưng phấn và gây co giật của amphetamin và làm giảm thấp tỷ lệ tử vong do thuốc này gây nên.
Tác dụng hồi tỉnh
Khi tiêm vào ổ bụng của chuột bạch 0,8 – 1ml thanh khai chú xạ dịch, một chế phẩm của ACNHH, liên tục trong 5 ngày, nhận thấy hoạt tính của acetylcholin esterase trong nhân lục (locus cerulerus) gia tăng, chứng tỏ hoạt tính của acetylcholin trong nhân lục có thể kích phát hoạt tính của catecholamine trong các neuron, làm hồi phục công năng hướng tâm của cấu trúc lưới trong chất não, từ đó đạt được tác dụng hồi tỉnh. Nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng bảo vệ tế bào gan khỏi sự tác động bất lợi của carbon tetrachloride, làm hồi tỉnh hôn mê gan do nhiễm độc.
Tác dụng giải nhiệt
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh ACNHH có tác dụng làm hạ thấp thân nhiệt của thỏ được gây sốt bằng độc tố của vi khuẩn, tác dụng kéo dài từ 5 – 6 giờ, so với nhóm chứng có sự khác biệt rõ rệt. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh tác dụng giải nhiệt của ACNHH trong các trường hợp sốt do tiêm vắc-xin tam liên, thông thường sau khi tiêm vắc-xin chừng 60 phút thân nhiệt tăng cao, dùng ACNHH có thể làm cho thân nhiệt giảm rất nhanh.
Tác dụng chống viêm tiêu thũng
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng rõ rệt của ACNHH đối với tình trạng viêm khớp ở chuột. Trên mô hình gây viêm tai chuột bằng dinathylbenzene, ACNHH tỏ ra có tác dụng ức chế rõ rệt quá trình viêm. ACNHH còn có tác dụng kích thích khả năng thực bào của đại thực bào, làm tăng chỉ số và tỷ lệ % thực bào, làm cho đại thực bào to ra và gia tăng số lượng các túi thực bào.
Tác dụng đối với hệ tim mạch
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ACNHH có tác dụng làm hạ huyết áp trên động vật thí nghiệm từ 5,4 – 7,5 kPa. Trên tim thỏ cô lập, ACNHH có khả năng ức chế sức co bóp cơ tim và làm giảm tần số tim. Trên chó gây mê, ACNHH làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp nhưng lưu lượng động mạch vành và sức bóp cơ tim lại gia tăng. Chứng tỏ thuốc có khả năng cải thiện công năng tim. Ngoài ra, ACNHH còn có tác dụng làm giảm lượng oxy tiêu thụ cơ tim, kéo dài thời gian sống của động vật thí nghiệm trong điều kiện thiếu oxy.

Nguyên tắc điều trị đột quị1.        Sử lý cấp cứu càng nhanh càng tốt để ngăn chặn cơn đột quị, Việc cấp cứu sớm có ý nghĩa rất quan trọng, do trong vài giờ đầu mới xảy ra đột quị thường có nhiều biến chứng đe dọa tính mạng BN nhưng có thể phòng ngừa hay điều trị được
2.        An thần: tức là làm giảm hưng phấn các tế bào não, từ đó làm giảm lượng oxy tiêu thụ
3.        Khai khiếu thông mạch: làm cho các mạch máu não thư dãn, dãn ra cục máu đông thoát đi được, có một số bệnh viện trên thế giới dùng biện pháp nong mạch hoặc giải phẫu
4.        Hoạt huyết tiêu ứ: Dùng  thuốc hoạt huyết tiêu ứ để tiêu trừ những huyết khối, những mảng xơ vữa trong cơ thể
 AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN – THẦN DƯỢC CHO NGƯỜI ĐỘT QUỊ!
 An cung Ngưu hoàng hoàn là thuốc cấp cứu Đông y truyền thống, được dùng cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não cực kì hiệu quả và nhanh chóng, nhiều người bị hôn mê, nằm viện mấy ngày không tỉnh tiên lượng rất xấu, uống An Cung Ngưu Hoàng Hoàn đã tỉnh lại và hồi phục.
Thành phần : Ngưu hoàng , Tê giác (hoặc Thuỷ tê giác),  Trân châu (Ngọc trai), Hoàng liên, Chu sa, Hùng hoàng, hoàng cầm, sơn chi, xạ hương, uất kim…..
Trong đó các vị thuốc Tê giác, hoàng cầm, Sơn chi, Hoàng liên  …. thanh nhiệt an thần trấn kinh cực mạnh, làm cho các tế bào não giảm hưng phấn, tiêu thụ oxy ít nhất
Xạ hương có tính chất tuyên thông khai khiếu cực mạnh, làm cho tri giác phục hồi, và có khả năng thông mạch, (chính vì tính chất này nên phụ nữ có thai không được dùng vì sẽ bị sẩy thai)
Chính vì có tính chất như vậy nên bài thuốc này điều trị đột quị (Thể chứng bế, nhồi máu não) cực kì hiệu quả. Các bệnh viện ở Trung quốc đều có loại thuốc này để điều trị đột quị.
Tại sao mỗi gia đình nên có một vài viên An cung  Ngưu Hoàng Hoàn để phòng bị ?
Như trên đã trình bầy, khi đột quị xẩy ra, vấn đề cấp cứu kịp thời cực kì quan trọng, sớm được giờ phút nào hay giờ phút đó. Vì vậy khi tai biến xẩy ra, bạn cần phai cho người bệnh uống thuốc kịp thời để tránh cho tế bào não bị tổn thương  càng ít càng tốt. Cho nên mỗi gia đình cần phải dự trữ ít nhất một viên An cung Ngưu Hoàng hoàn để cấp cứu.
  THÀNH PHẦN AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN.

Thành phần an cung ngưu hoàng hoàn
Bài thuốc An cung ngưu hoàng hoàn: Ngưu hoàng:  40; Uất kim:          40; Hoàng cầm:     40; Hùng hoàng:    40
Băng phiến:     10; Trân châu:       20; Chu sa:            40; Tê giác:           40
Hoàng lien:      40; Sơn chi:           40; Xạ hương:       10;
   Cách dùng:
Tất cả các v ị thuốc tán bột thật mịn, luyện mật làm hoàn, mỗi viên 4g, mỗi lần uống 1 viên, ngày 2 lần. Trẻ em tùy tuổi giảm liều.
   Tác dụng:
Thanh nhiệt giải độc, khu đàm, khai khiếu.
   Giải thích bài thuốc:
Bài thuốc chủ yếu trị chứng sốt cao hôn mê co giật ( Nhiệt nhập tâm bào), nói sảng, lưỡi đỏ thẫm, mạch “ sác” hoặc trẻ em sốt cao, co giật, trong bài, vị Ngưu hoàng thanh tâm giải độc, hóa đờm, khai khiếu, an thần là chủ dược, Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử tả tâm hỏa, thanh nhiệt độc, Hùng hoàng cùng với Ngưu hoàng khu đàm giải độc, Uất kim, Băng phiến phương hương hóa trọc thông khiếu khai bế. Chu sa, Trân châu trấn kinh an thần, các vị thuốc hợp lại thành bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt giải độc, khu đàm khai khiếu, trấn kinh an thần.
   Ứng dụng lâm sàng:
Đây là một bài thuốc chủ yếu để thanh nhiệt khiai khiếu khu đàm, đối với những bệnh nhân nhiễm độc nặng, sốt cao, hôn mê, co giật như: Viêm  màng não, Viêm não, tai biến mạch máu não, Lỵ nhiễm độc, viêm phổi nhiễm độc cũng có tác dụng tốt. Trương hợp chứng “ nhiệt nhập tâm bào”, sốt cao hôn mê co giật thêm hội chứng “dương minh phù chứng” (táo bón bụng đầy trướng) có thể dùng bài này thêm với bột đại hoàng 12g chia 2 lần uống, gọi là bài “ Ngưu hoàng thừa khí thang”.

17 thg 10, 2013

Bàn thêm về con Giun đất (Địa long)

Nguồn: http://www.caythuocquy.info.vn/old/modules.php?name=News&opcase=detailsnews&mid=1765&mcid=245

Trong bài trả lời bạn đọc về Con giun đất trên CTQ27, lương y Nguyễn Hữu Hiệp có nhắc đến bài thuốc “Thần dược cứu mệnh”. Nhân đây tôi xin kể thêm sự việc vào các năm 97-98 thế kỷ trước, bài thuốc này đã từng là “huyền thoại một thời”. Không ai ngờ được rằng từ một “tư liệu y học” đăng nhiều kỳ trên tờ báo địa phương tỉnh Long An, sau được một loạt các tạp chí không phải chuyên ngành y dược như Thế giới mới,... đăng giới thiệu, thế là dẫn đến một phong trào sử dụng bài thuốc cho nhiều bệnh chứng nan y phát triển rầm rộ từ Nam ra Bắc. 

Thời đó quả là một cơ hội vàng cho nhiều cửa hiệu kinh doanh thuốc. Giá Địa long đắt như tôm tươi, từ khoảng trên dưới ba mươi ngàn đã đẩy lên đến cả trăm ngàn/1kg, mà nhiều khi không đủ hàng để bán. Theo quy luật cung cầu, có những nhà thuốc, thậm chí cả những bệnh nhân sau một vài lần sử dụng đã có thể tự xào xáo chế biến hàng loạt cái gọi là “thần dược” ấy để tung ra bán trên thị trường nhằm trục lợi. Không ai có thể phủ định một số hiệu quả thực tế của bài thuốc, nhưng thổi phồng tác dụng quá đáng để cho kẻ xấu lợi dụng, gây khủng hoảng niềm tin cho người bệnh, bởi càng gieo hy vọng tràn trề, càng chuốc thất vọng não nề  cho nhau, thì thật là đáng tội. Sau hơn một năm suy nghĩ, thậm chí cả day dứt trăn trở nữa, tôi đã quyết đinh viết bài “cuối năm con hổ, tính sổ con giun” hay “hiểu đúng về vị thuốc Địa long” đăng trên chuyên san y dược của địa phương. Việc xảy ra 6 - 7 năm rồi, nay có dịp trở lại nói thêm về con Giun đất ngỏ hầu tiếp chuyện cùng bạn đọc CTQ.
Giun đất còn gọi là Trùn, Địa long, Thổ long, Khâu dẫn..., là một vị thuốc khá quen thuộc, được sử dụng lâu đời trong Đông y. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh, quyển sách thuốc đầu tiên ra đời khoảng hai ngàn năm trước, với tên “Bạch cảnh khâu dẫn” nghĩa là trùn có cổ trắng, hay như dân ta quen gọi là trùn khoang cổ, vị thuốc này bị xếp vào loại “hạ phẩm”, theo cách phân loại của sách này chỉ những vị thuốc ít nhiều có độc, không được dùng lâu dài, chủ yếu để trị bệnh chứ ít tác dụng bổ dưỡng.  
Các sách thuốc đời sau, kể cả danh tác Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân ở Trung Quốc, cũng như Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh Thiền sư và Lĩnh Nam Bản Thảo của Hải Thượng Lãn Ông đều phân Giun đất vào bộ côn trùng. Quyển Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam của GS, TS. Đỗ Tất Lợi cũng không ngoài lệ ấy. Nếu phân loại thuốc theo tác dụng dược lý cổ truyền mà hầu hết sách Đông dược mới biên soạn hay áp dụng, theo một số đầu sách ít ỏi chúng tôi có được thì  giun đất được xếp vào rất nhiều nhóm thuốc khác nhau.  Sách Lâm sàng thường dụng, Trung dược thủ sách (Học viện Trung y Hồ Nam biên soạn, NXB Vệ sinh Nhân dân, Bắc Kinh, 1972) xếp vào nhóm “khu phong thấp”. Sách Dược học cổ truyền của GS.Trần Văn Kỳ (T.2, NXB Tp.HCM,1997) cũng xếp theo nhóm này. Sách Tân biên Trung y học khái yếu  (do 9 Học viện Trung y Trung Quốc phối hợp biên soạn, nxb VSND, Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm thuốc “trấn tiềm an thần”. Sách Giản minh Trung y học (Đại học Tân Y Hà Bắc biên soạn, nxb VSND, Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm “bình can tức phong”. Tương tự là sách Thuốc cổ truyền và ứng dụng Lâm sàng của GS. Hoàng Bảo Châu (NXB Yhọc, Hà Nội, 1999) xếp vào nhóm “trấn kinh an thần” loại “tức phong chỉ kinh”. Trong khi đó sách Dược Tính Đại Từ Điển (Hồ An Bang biên soạn, Trường Hưng thư cục, xuất bản ở Hương Cảng, không ghi năm in) lại xếp giun đất vào nhóm “tả hạ thuỷ ẩm “ (lợi tiểu). Chúng tôi buộc phải dẫn nhiều sách của TQ vì các tài liệu chính thống ở nước ta như bộ giáo trình Bài Giảng YHCT in đi in lại nhiều lần vẫn bỏ quên vị thuốc này. Nhưng mục đích quan trọng của trưng dẫn xếp loại không thống nhất là muốn nói lên một sự thật về tính công dụng đa năng của vị thuốc Giun đất.
Nhìn chung, theo tài liệu cổ, Giun đất có vị mặn, tính hàn, nhập các kinh Tỳ, Vị, Can, Thận, có tác dụng thanh nhiệt, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc, định suyễn; dùng chữa bệnh nhiệt phát cuồng, kinh phong co giật, ho suyễn, bán thân bất toại, miệng mắt méo lệch, tiểu tiện khó khăn, phong thấp đau nhức,..
Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc, tác dụng thanh nhiệt (hạ sốt) của Giun đất là do thành phần lumbrifebrin; tác dụng phá huyết (làm giảm độ dính của máu và độ ngưng tập của hồng cầu) là do chất lumbritin; tác dụng lợi tiểu, chữa đau nhức khớp xương là do có nhân purin. Các thực nghiệm còn chứng minh các thành phần đạm có trong giun đất có tác dụng kháng histamin (giải độc), làm giản khí quản (hiện nay ở TQ đã chế thành ống tiêm dịch giun đất gọi là địa long chú xạ dịch để điều trị hen suyễn trên lâm sàng), hạ huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non. Thành phần Giun đất còn có một độc tố là terrestro-lumbrolysin có thể gây co giật. Có lẽ nhờ thành phần này mà Giun đất được dùng điều trị các chứng cấp mạn kinh phong theo nguyên tắc “lấy độc trị độc”, nhưng phải theo liều lượng và phối hợp thuốc nghiêm mật. Liều dùng thông thường của Giun đất ghi nhận qua các tài liệu là 6-12g dưới dạng thuốc sắc, 2-4g dưới dạng thuốc bột (khô). Việc bào chế cũng là một khâu rất quan trọng trong dùng thuốc Đông y, tuỳ từng trường hợp mà có cách bào chế riêng, xin giới thiệu một vài ứng dụng lâm sàng của Giun đất:
Dùng làm thuốc thông kinh hoạt lạc, giảm đau: Sử dụng cho thể thấp nhiệt ứ trệ kinh lạc, khớp xương sưng nóng đỏ đau, tiểu tiện ít mà vàng. Có thể phối hợp với các vị thuốc nhiệt như Ô đầu, Phụ tử để điều trị đau khớp xương thể hàn thấp. Bài thuốc điển hình là Hoạt lạc đơn: Xuyên ô đầu, Thảo ô đầu,  Địa long, Thiên nam tinh mỗi thứ 8g, Nhủ hương, Một dược mỗi thứ 6g, tất cả tán bột, lấy rượu khuấy hồ làm hoàn. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Kinh giới để trị thấp đàm ứ huyết trở trệ kinh lạc gây đau.
            
Một bài thuốc khác có công dụng bổ khí hoạt huyết, hành ứ tán trệ, dùng trị di chứng trúng phong (tai biến mạch máu não): liệt nửa người, miệng mắt méo lệch, nói khó, miệng chảy nước dãi, tiểu không tự chủ... cho kết quả tốt là bài Bổ dương hoàn ngũ thang của tác giả Vương Thanh Nhiệm: Hoàng kỳ 40g, Đương quy vĩ, Xuyên khung, Địa long mỗi thứ 8g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 6g, Xích thược 12g; sắc uống ngày một thang.
  
Dùng trị sốt cao, co giật: Có thể chọn một trong các bài sau:
- Địa long tán: Địa long 12g, Toàn yết 4g, Câu đằng 16g, Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 12g; sắc uống.
- Địa long 12g, Châu sa (Thuỷ phi) 4g; tán bột làm viên, mỗi lần uống 4g.
-Trùn đất sống 160g, Đường đỏ 40g, giã nhuyễn, bọc vải đắp lên bụng dưới.
Dùng làm thuốc lợi tiểu, trị đái khó: Đi tiểu không thông do thấp nhiệt, hoặc bí tiểu do sỏi tiết niệu, dùng Trùn tươi, đầu củ Tỏi, lá Khoai đỏ giã nhuyễn đắp lên vùng rốn, hoặc phối hợp thuốc lợi thuỷ để uống.
Dùng làm thuốc thanh phế bình suyễn: Đối với ho suyễn do hoả nhiệt thượng viêm, như hen phế quản khó thở, trẻ em ho gà, có thể dùng:
- Địa long 12g sắc uống.
- Hoặc Địa long tán bột mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần.
- Hoặc Địa long và Sinh cam thảo bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 2 lần.
            
Ngoài ra, xin giới thiệu một bài thuốc mới được báo cáo có khả năng trị ung thư và hạ huyết áp, trích từ sách Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách như sau: Địa long, Ngô công, Phong phòng (tổ ong), Bồ công anh, Bản lam căn, Toàn yết, Xà thoát (xác rắn lột), mỗi thứ 40g, Bạch hoa xà thiệt thảo 320g, tất cả tán bột, luyện mật làm hoàn; mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần.
Những bài thuốc trên đây chủ yếu để giới thiệu ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Giun đất hay Địa long, thầy thuốc có thể tham khảo vận dụng phép gia giảm, điều chế (nhất là đối với các vị thuốc có độc như Phụ tử, Ô đầu, Châu sa...) thích hợp với từng người bệnh cụ thể mới đem lại kết quả trong điều trị. Người bệnh không được tự ý sử dụng, bởi không nắm được các chống chỉ định của thuốc. Thuốc là con dao hai lưỡi cần được điều khiển bởi bàn tay lành nghề mới phát huy hết tác dụng và tránh được tác hại của nó.
L/Y Phan Công Tuấn

21 thg 2, 2012

Thàn dược cứu mệnh


THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
( Bài đăng trên báo Long An - thứ năm từ 21-4 đến 24-4 1997,
năm thứ 34, số 29/97 (1509)

LTS: Ông Nguyễn An Định, cộng tác viên của Báo Long An, hiện nghỉ hưu tại TP.HCM. Với tấm lòng thiết tha với vốn quý y học cổ truyền, lại thêm mối cảm tình với nghề y trong gia tộc (ông là trưởng nam của nhà ái quốc Nguyễn An Ninh), từng có lúc hành nghề y dược. Vừa qua ông có bài viết sau đây; chúng tôi xin giới thiệu, như một tư liệu để bạn đọc tham khảo. Tác giả và tòa soạn báo rất mong nhận được ý kiến đánh giá của các nhà chuyên môn về nội dung y dược học nêu trong bài viết.


THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 1

Có quyển sách thuốc Nam, in đầu thế kỷ 20 mang tên "Thần dược cứu mệnh", giới thiệu một bài thuốc thần "cứu người sau bốn khắc". Trong quyển "Hai trăm bài thuốc quý" của ông Lê Văn Tĩnh, Sa Đéc, in khoảng năm 1940, cũng có một bài giống y như vậy, đề là "chủ trị lâm ban, ôn dịch và các bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút".

Quyển "Thần dược cứu mệnh" mở đầu bằng câu "Con người dẫm lên thuốc thần mà không biết, nên vẫn chết". Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc có tên "Địa long" - con rồng trong đất. Ở Trung Quốc và Việt Nam, vị Địa long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo Địa long trứơc khi ngủ, để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo Địa long có bán tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Gần đây trong thời gian Thế vận hội Olempic Seoul, vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường nhân dân Nam Hàn, nên Chính phủ đã cấm bán cháo Đia long trong thời gian Thế vận hội. Vậy "Địa long" là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có màu sẫm đen, ánh xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng nó, nó không giãy giụa, co thành một nùi tròn nằm im.


"Thần dược cứu mệnh" phân tích tính dược của trùn đất, cho rằng nó có khả năng: làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối liền các chỗ dây thần kinh bị dứt, các mạch mạu bị nứt rách, hồi phục sự sống cho các tế bào đã bị hoại tử, tách ra và đào thải các tế bào đã chết thối, hết phương phục hồi, vực dậy vô cùng nhanh chóng sức chống trả bệnh tật của con người ( ngày nay gọi là vực dậy sức miễn dịch của cơ thể). Cho nên, chỉ sau sáu mươi phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sàng đều biến mất. Do đó Địa long được dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: cửu khiếu xuất huyết, não bộ xuất huyết, ngũ tạng, lục phủ xuất huyết, phù thận, phù gan, phù toàn thân, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không có sốt, bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng trướng nước, "mắc đằng dưới" (bạch đới nặng, ngày đêm đáy quần ướt sũng hôi hám, người ốm tong, xanh xao...)

Ở hai quyển sách, hai bài thuốc giống nhau, có một nét đặc biệt nổi bật "bênh lui sáu mươi phút sau khi uống thuốc", mà lại chuyên trị những ca rất khó trị. Ví vậy nói "thần dược cứu mệnh" thật không ngoa chút nào.

Lúc nhỏ tôi rất mê nganh y dược. Các sách chữ Pháp dành cho các y bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa khoa, giải phẫu... đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền, tôi cũng ráng mua để nghiên cứu. Hai quyển sách thuốc : "thần dược cứu mệnh" và "200 bài thuốc quý" tôi coi như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm dưới đáy ba lô tôi, theo tôi suốt chín năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầu năm 1954, tôi đã cứu gần trăm người, coi như giật lại từ tay thần chết.

Trong cuộc giành giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y, mà trước đó các nhà điền chủ lớn ở Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy đến tận nhà để rước ông. Năm đó ở vùng Giáp bốn tỉnh này có một đợt dịch bệnh, phần lớn là các cháu nhỏ từ 9 -10 tuổi đến 15 -17 tuổi, đa số là gái, các cháu trai và người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người) hôn mê bất tỉnh nằm im như xác chết suốt bảy ngày, có khi lâu hơn, mạch đã lạc không bắt được, hơi thở rật yếu khó nhận thấy, da tái xanh, tay chân lạnh ngắt (nhưng vẫn còn mềm dịu, nếu cứng đơ thì đã bị đem chôn rồi)

Lần đó cháu gái hôn mê đã 8 ngày, mình đầy các vệt tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên, nhưng ông đến xong lại từ chối không trị bệnh cho cháu, chỉ vì trong số 30-40 vệt bầm đen trên da cháu, có một vệt đen kịt to bằng đầu ngón tay, nằm đúng giữa hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy, nên ông không hốt thuốc.

Tình cờ tôi đến, thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông cứu cháu, mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim, thấy còn tiếng thoi thóp rất yếu, tôi nói:

- Thưa thầy, thầy quyết bỏ, thì con xin phép thầy cho con cứu cháu.

- Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen ngay huyệt Tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em, sau khi em đổ thuốc thì bao lâu cháu tỉnh lại? Em nói được, tôi sẽ để cho em đổ thuốc.

- Thưa thầy bài thuốc của con, cháu uống xong chỉ độ 63-65 phút sau cháu sẽ mở mắt.
Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm tôi rồi quát:

- Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ bàn.
Ông dằn mạnh đồng hồ lên bàn, nói:

- Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại coi cháu nhỏ tỉnh dậy.

Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cạy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên tới phút 63 cháu mở mắt, đến phút thư 65 cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo, đòi cho đi tiêu tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn tròng trắng, không thấy tí tròng đen nào. Nhưng tay chân cháu đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu đã sống lại.
Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp tay trước ngực nói:

- Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho, vì thầy trẻ quá, nhỏ hơn con tôi nhiều, do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy. Tôi chỉ xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy.

Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc.

Năm đó, ngoài các hiện tượng hôn mê sâu nhiều ngày, xuật huyết dưới da, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết nội tạng, xuất huyết não, còn có nhiều ca bệnh khác. Bà nọ phát điên đã 4-5 ngày. Phải vất vả lắm mới đổ được thuốc. Cũng hơn 60 phút bà khỏi hẳn. Ông kia hơn 90 tuổi, cảm gió nằm im sùi bọt mép, mắt trật thị, tay chân lạnh ngắt. Lấy móc tai đâm dưới móng mười ngón tay mút không ra tí máu, máu đã đông. Khi tôi cạy răng đổ thuốc, còn có người nhà nói sau lưng tôi:

- Thuốc hay thì trị được bệnh, chứ cãi làm sao được mệnh của trời. Ông đã trên chín mươi tuổi còn gì. Cứu sao được mà cứu?

Vậy mà sau khi đổ thuốc 65 phút, ông vẫn sống, cãi cả mệnh trời thật!

THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 2

Cuối năm 1969, ở Hà Nội có đợt dịch bệnh gọi là sốt xuất huyết, được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn có ngày 15-17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh gây chết tràn lan, tôi đến các bệnh viện xem. Thấy các dạng bệnh giống y như tôi đã từng gặp, tôi viết ngay một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc "Thần dược cứu mệnh", gởi lên Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Bác gởi phổ biến đi các tỉnh, đồng thời gởi đăng ngay trên báo "Hà Nội mới". Trong bài viết của tôi có câu:

"Đề nghị dùng thuốc này cho các ca bệnh nặng nhất. Bảo đảm 100% sẽ không có tử vong". Bác sĩ Hưởng đã xóa bỏ đoạn "... Bảo đảm 100%...". Đọc báo thấy mất đoạn đó, tôi chạy ngay đến nhà bác Bộ trưởng. Tôi nói:

- Thưa bác, bác bỏ mất đoạn quan trọng nhất trong bài của cháu. Vì cháu nghĩ, vị chủ của bài thuốc nầy là con trùn, nên nó dễ gây ngại dùng. Bắt con trùn còn gớm, làm thuốc càng ớn hơn, vì vậy để câu đó, người ta tin chắc chắn nó sẽ cứu sống người bệnh, do đó người ta ráng không gớm, ráng bằng mọi giá làm thuốc để cứu bệnh nhân.

Bác Hưởng nói:

- Giả dụ người bệnh đến giờ phải chết, 5-10 phút nữa sẽ chết, mà thuốc của cháu lại cần đến 60 phút mới cứu sống. Vậy làm sao bảo đảm 100% được? Thận trọng vẫn hơn cháu à. Trong ngành y không nên nói câu đó.

- Thưa bác, nhưng kinh nghiệm thực tế của cháu đã cho thấy rõ, thuốc có uống khỏi cổ là đã chắc sẽ sống rồi.

Bác Hưởng không bằng lòng nên nói:

- Tôi nhắc lại, ngành y không cho phép nói bảo đảm cứu sống 100%.
Bác cháu tôi tranh luận như vậy. Nhưng vài tháng sau, đến Hội nghị tổng kết dịch sốt xuất huyết toàn miền Bắc, do Sở Y tế Hà Nội tổ chức, tôi nhận được thư mời của đồng chí Giám đốc Sở Y tế Hà Nội. Trong giấy mời đồng chí viết:

- Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ có sử dụng bốn bài thuốc Nam do nhân dân đóng góp. Nói chung, thuốc Nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các bệnh nhân dùng ba bài thuốc kia, vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài "trùn đất" của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào. Mặc dù bài thuốc đó đã dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất. Vì vậy, mời đồng chí dự hội nghị tổng kết. Đặc biệt mời đồng chí báo cáo với hội nghị một số vấn đề mà chúng tôi muốn biết. Ví dụ: tại sao đồng chí biết dùng năng lượng của dòng điện 12 von để gọi thức thần kinh trung ương của bệnh nhân hôn mê sâu. Mà lại nói được: sau khi nạp điện lần thứ năm thì bệnh nhân tỉnh dậy?

- Còn một số vấn đề khác, chúng tôi cũng xin đồng chí cho biết rõ hơn. Ví dụ vấn đề 63-65 phút, có trường hợp nào khác đi, kéo dài hơn không? Ngoài bệnh sốt xuất huyết, thuốc còn trị được các bệnh nào khác?

Cuộc họp đó có khoảng hơn 200 người đến dự, gồm Hội đồng Kỹ thuật của Bộ, các giám đốc bệnh viện quận và huyện ngoại thành, các lương y và sư sãi tham gia trị bệnh cứu người. Báo cáo của tôi trả lời các câu hỏi của đồng chí giám đốc sở cùng nhiều câu hỏi khác, đã được hội nghị vỗ tay hoan hô hồi lâu.

Sau hôi nghị đó, bác Hưởng mời tôi tới nhà bác và gợi ý:

- Tôi muốn đề nghị với Bộ Văn hóa biệt phái cháu về Viện Đông y trong thời gian 3-5 năm. Ỡ Viện, tôi sẽ cử cháu phụ trách một tổ nghiên cứu gồm nhiều phó tiến sĩ y dược. Cháu cùng các vị đó sẽ bào chế, biến bài thuốc của cháu thành thuốc chai để uống, sau đó tiến tới biến thuốc thành dạng nước trong cho vào ampoule để chích. Chế được thuốc tiêm, ta sẽ đưa đi điều trị cho bảy - tám chục bệnh nhân. Nếu thời gian chấm dứt các hiện tượng làm sáng tỏ vấn đề là 63-65 phút như thuốc thang, coi như ta thành công. Chừng đó bác sẽ cho sản xuất đại trà, bán rộng ra nước ngoài. Bác sẽ để tên thuốc là AV, ngầm hiểu là antivirus. Vì hiện nay trên thế giới người ta cho là "chưa có thuốc đặc hiệu trị siêu vi trùng", cho nên ta chưa dám đề rõ nguyên chữ antivirus. Khi nào thiên hạ dùng nhiều và xác định thuốc này diệt siêu vi trùng rất có kết quả, lúc đó tự họ sẽ cho thuốc của ta là antivirus.

Hồi đó tôi mới lấy xong bằng đại hoc nghệ thuật từ nước ngoài, mới về nước, nên còn mê công tác văn học nghệ thuật. Chưa biết say mê ngành y, cho nên đã từ chối lời mời của bác Bộ trưởng Bô Y tế, kiêm Viện trưởng Viện Đông y. Tôi nói:

- Thưa bác, cháu làm tổ trưởng tổ nghiên cứu thì làm sao các vị phó tiến sĩ y dược nghe theo lời cháu. Đã lập một tổ chức gồm toàn các vị có chuyên môn cao, sao bác không ra lệnh cho các vị chịu trách nhiệm bào chế cho thành công? Làm như vậy có phải tốt hơn không?

- Cháu ơi, vấn đề phức tạp lắm. Phải nói thật, mặc dù Đảng bảo phải coi trọng Đông y, nhưng những người có học vị cao, đã có mấy người thật sự tin tưởng Đông y! Hơn nữa, bài thuốc của cháu gồm bốn vị, thì con trùn đất dễ bị người ta gớm. Còn ba vị kia: đậu đen, đậu xanh, rau bù ngót, rất dễ làm cho người ta coi thường. Do hai đặc điểm đó nên bài thuốc của cháu có thể khiến người ta thiếu quyết tâm nghiên cứu thật đến nơi đến chốn. Chỉ có cháu, người đã có kinh nghiệm thực tế, đã từng cứu sống hàng trăm người, giành giật họ lại từ tay thần chết, thì cháu mới có đủ quyết tâm và lòng tin, để đưa cuộc nghiên cứu đến thành công. Bác tin cháu, cử cháu làm, bác phải có trách nhiệm theo dõi sát và buộc mọi người phải làm đúng theo lời cháu. Với bài thuốc đó, bác tin là thời gian hoàn thành công trình sẽ rất ngắn. Bởi vì, đặc điểm 65 phút của nó rất đặc biệt. Nó xác định xác bước nghiên cứu của ta bằng cách xem giờ. Bác tin rằng có thể chỉ một năm, ta sẽ hoàn thành công trình này.

Bác Bộ trưởng rất tin ở bài thuốc, tin ở tôi, từng lời bác mang nhiều ý nghĩa khích lệ, động viên tôi dũng cảm nhận trách nhiệm lớn. Tuy nhiên, tôi vẫn ngại, cái lo ngại tự nhiên của một người mặc dù có kinh nghiệm thực tế không phải ít, có đọc sách trình độ cao, nhưng chưa được học có hệ thống lý luận nghiệp vụ chính quy trường lớp.

THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 3

Tôi định chép hết cả bài báo của Ông Định, nhưng thấy một số bạn muốn biết ngay bài thuốc nên tôi chép luôn phần 4 của bài báo. Trong khi chép lại, thấy có một số chỗ hơi gợn về từ ngữ, nhưng tôi trung thành chép nguyên không thay đổi theo ý mình hiểu, sợ bản thân chưa nắm hết sẽ hiểu sai ý tác giả. KT

Bỏ mất cơ hội đó, tôi cứ tiếc mãi. Suốt 27 năm qua, cứ mỗi lần đọc báo, xem đài, nghe thấy tin dịch bệnh vẫn hoành hành, các cháu vẫn chết. Vào bệnh viện thấy các cháu nhỏ hôn mê sâu, nằm im như xác chết xanh lè, là tôi không sao cầm được nước mắt. Có lần đang ăn cơm mà tôi phải buông đũa rồi khóc nức nở như trẻ nhỏ. Một lần, kiềm không được lòng mình, tôi đã la lên: Trời ơi! Thuốc đây! Có thuốc đây, tại sao các cháu vẫn chết, hỡi trời?

Gần 30 năm đã trôi qua, mà tôi cứ tự trách mình, tự dằn vặt mãi. Cứ mãi cho rằng do tôi, năm đó tôi đã thiếu trách nhiệm, đã thiếu dũng cảm mà nên. Khổ nỗi ở nước ta, nhiều người vẫn còn gớm con trùn cho nên bài thuốc vẫn không được dùng rộng rãi?

Cuối cùng tôi quyết phải cố gắng viết, đưa vấn đề này lên mặt báo, để bài "Thần dược cứu mệnh" đến tận tay đồng bào, nhất là bà con ở các vùng xa xôi hẻo lánh, đường đi tới bệnh viện có khó khăn, người ta buộc lòng phải tự làm để cứu mạng người thân. Nếu có hàng trăm, hàng ngàn người được cứu sống, thì bài thuốc này sẽ được khẳng định.

Hoặc giả, trong cả triệu nhà chuyên môn, nhà nghiên cứu sẽ có những người tin tưởng nó, dùng nó để trị bệnh, dùng nó để chế thuốc tiêm, tiện dùng hơn, hiệu quả hơn.

Nếu thật sự có những vị như thế, trong nước như ngoài nước thì khi các vị cần tôi hợp tác, tôi sẽ luôn luôn sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu.

Bài thuốc gồm 3 vị : Trùn đất, đậu đen, bù ngót. Trong quá trình trị bệnh cứu người, tôi có gia thêm vị thứ tư là đậu xanh. Vì tôi nghĩ: đào trùn có khi ở gốc chuối, có thể có những chai lọ hóa chất, hoặc trùn đào tại các cây có độc như xương rồng, sầu đâu, chùm ruột, ít nhiều bị nhiễm độc, sẽ có đậu xanh giải độc.

Từ khi tôi thêm vị đậu xanh, năm 1954 đến nay, thuốc vẫn đẩy lùi bệnh sau 65 phút, y như thang gốc. Nghĩa là hầu hết các trường hợp cứu bệnh tôi kể trên, thuốc đều có 4 vị, tức có thêm đậu xanh.

Bài thuốc như sau:

1/Địa long 50g mỗi thang, tương đương 50 con trùn tươi(Xin mách : ở khu chợ thuốc bắc, đường Hải Thượng Lãn Ông Chơ Lớn lúc nào cũng sẵn, muốn mua cả tạ cũng có ). Nếu không có điều kiện mua Địa Long thì đào trùn tươi (loại màu sẫm rất dai, đào trúng nó, nó không giãy co lại thành 1 núi tròn). 50 con cho liều người lớn hoặc từ 15-16 tuổi trở lên. 30 con cho trẻ từ 5-6 tuổi đến 13-14 tuổi. 20 con cho trẻ từ 1-2 tháng tuổi đến 5-6 tuổi.

2/ Đậu đen, đậu xanh mỗi thứ 100g (sách cổ ghi: 1 bụm to).

3/ Rau bù ngot bằng 2-3 mớ bán ở chợ, khoảng 200-300g, băm nhỏ cả cọng và lá.

Trùn rọc ra, rủa sạch sao thơm giòn, giã nhỏ. Đậu và rau sao thơm, tất cả cho vào siêu hoặc nồi đất hay nồi nhôm gang đều được. Cho vào 4 chén nước, sắc còn 1/2 hoặc 1/3 chén cho người bất tỉnh, phải cạy răng đổ. Thuốc nầy uống 1 thang cũng thấy hết bệnh, nhưng tôi thường cho uống 3 thang trong 3 ngày (tối nước nhất, sáng nước nhì). Hai thang sau để trừ căn và triệt các di chứng (như tai biến mạch máu não có thể di chứng câm, què quặt tay chân, hư mặt, tai ... sốt xuất huyết dễ hư tim, óc ... ) cho nên khi uống thang thứ 2, thứ 3, bệnh nhân đã tỉnh táo. Thuốc có thể pha đường cho dễ uống. Bù ngót sao thật khô giòn, thuốc sẽ có vị thuốc bắc. Bù ngót để tươi sắc không sao, nước thuốc giống chè đậu đen pha đường uống rất ngon.

Thuốc nầy bệnh càng nặng càng thấy rõ hiệu quả 65 phút. Bệnh nhẹ ít thấy rõ kết quả 65 phút, nhưng bệnh vẫn lui. Ở Đại Hàn (Nam Triều Tiên) là xứ sở nhân sâm Caoly, mà người ta còn tẩm bổ bằng cháo trùn. Ở nước ta các dân tộc miền núi phía Bắc trị bụng báng trướng nước bằng cách : trùn băm nhỏ để tươi, trộn với sữa, cứ để thế múc nuốt. Triều Tiên thì cháo trùn là món ăn ngon (đặc sản) chứ không chỉ là món thuốc vừa tẩm bổ vừa trị bá bệnh. Trùn băm nhuyễn, xào thơm, nấu với đậu. Vì quý chất bổ và chất trị bá bệnh của con trùn nên người ta đâu có gớm nó. Huống hồ khi cần trị bệnh nan y hoặc giành giật mạng sống từ tay thần chết, thì có gì mà gớm? Mong rằng đồng bào và các cơ sở y tế hãy mạnh dạn dùng nó trong các bệnh siêu vi trùng, kể cả sida.

Nhân đây tôi xin nói rõ thêm hội nghị tổng kết chống bệnh sốt xuất huyết đợt 1 họp năm 1970. Thông tin nầy được đưa ra toàn thế giới. Nước Nhật nghiên cứu, ứng dụng điều trị. Đến năm 1972, đọc trên tạp chí Đông y của Việt Nam (in bằng khổ quyển Kiến thức ngày nay) tôi thấy có dịch và in lại những bài trong tạp chí Đông y Nhật Bản. Họ hết lời ca ngợi "bài thuốc con trùn của Việt Nam", dùng trị siêu vi trùng rất có hiệu quả. Có lẽ do công bố đó của Nhật mà sanh ra món cháo trùn ở Đại Hàn chăng? Tôi còn nghe một người từ Mỹ về nói bên đó người ta làm thuốc bằng trùn và đậu đen. Điều đó không rõ thực hư thế nào. Nhưng điều chắc chắn là Liên hiệp quốc, trong mấy năm trước đây, có chủ trương: "Tìm về cội nguồn các dân tộc kém phát triển, để học cách trị bệnh bằng cỏ cây và côn trùng". Do đó, ta thường thấy trên tivi và báo chí các cách trị bệnh kỳ lạ của dân da đen, da đỏ.

Càng nghĩ tới các điều đó, tôi càng thấy đau lòng, nhớ lại đề nghị của bác Ba Hưởng muốn tôi bào chế toa thuốc thành thuốc tiêm. Đúng là "không sao kéo lùi lại thời gian đã qua". Nhưng việc bào chế thuốc đó thành thuốc chai (để thêm acid benzoide bột) hoặc chưng cất nó như cất rượu, dù có trễ gần 30 năm, nhưng lúc nào bắt đầu, nó vẫn là việc mới, việc hết sức cần thiết.

Tôi tuy tuổi đã cao nhưng vẫn còn muốn đóng góp. Các cơ sở nghiên cứu, bệnh viện hoặc bệnh nhân cần tôi, tôi vẫn sẵn sàng phục vụ. Ngoài toa "Thần dược cứu mệnh", tôi còn trong tay nhiều bài thuốc quý khác. Ví dụ: bó xương gãy, kể cả xương sống dập nát và xương đòn gánh gãy lìa, chỉ cần thời gian 15 ngày. Bản thân tôi bị dập nát 2 đốt xương sống, quân y Quân khu 9 bó tay, báo tử về đơn vị, nhưng tôi nay vẫn sống mà không tật nguyền, vẫn tập tạ 50kg và đánh quần vợt khi tôi trên 40 tuổi, đang ở nước ngoài có độ lạnh âm 20 độ. Lúc trị lành 2 đốt xương sống không có kẹp nẹp bó bột gì hết. Chỉ nằm sấp dội thuốc nóng vào lưng suốt 15 ngày đêm. Sang ngày thứ 16 tôi ngồi dậy và đi ra đồng cả trăm mét. Nếu tôi có dịp, tôi sẽ lần lượt giới thiệu nhiều bài thuốc quý trên báo để phục vụ bạn đọc.

Dưới đây, tôi cũng xin ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của mình, để bạn đọc tiện liên hệ trao đổi thêm về nội dung bài viết. NGUYỄN AN ĐỊNH, (40/10 Hậu Lân-Bà Điểm-Hóc Môn-TPHCM) - ĐT 8914379.



(sưu tầm)_______________________