Hiển thị các bài đăng có nhãn thần kinh toạ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thần kinh toạ. Hiển thị tất cả bài đăng

2 thg 7, 2013

Hai bài thuốc “cứu tinh” của bệnh đau thần kinh toạ

ST


Trong lúc y học hiện đại còn đang “vò đầu bứt tai” tìm cách chữa chứng bệnh thần kinh toạ, lương y Lương Minh Trí (45 tuổi, ngụ khu vực chợ Bồ Bản, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), Phó Chủ tịch Hội Đông y huyện Triệu Phong lại cho biết mình sở hữu đến hai bài thuốc cùng có thể giúp bệnh nhân bị thần kinh toạ giải trừ nỗi âu lo bệnh tật.
“Bảo bối” đông y từ 17 vị dược liệu

Chứng bệnh thần kinh toạ hay còn gọi toạ cốt phong, như lời lương y Trí cho hay, thường gặp phải ở lứa tuổi trung niên (40 - 60 tuổi). Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chứng thần kinh toạ như lao động nặng nhọc, nhiễm phong hàn.

Nguyên nhân phổ biến nhất xuất phát từ quá trình chuyển hoá can xi theo độ tuổi bên trong cơ thể người. Triệu chứng “đặc trưng” của bệnh nhân mắc chứng thần kinh toạ được ông Trí khái quát như sau: “Người bệnh thường bị đau ở vùng lưng, vùng chân hoặc đau nhức râm ran toàn cơ thể. Có một kinh nghiệm rằng bệnh nhân nữ thường đau nhức ở chân phải, còn nam đau ở chân trái. Thần kinh toạ khiến người mắc phải chịu cảm giác đau buốt đến tận xương tuỷ, việc đi lại rất khó khăn. Nếu để bệnh kéo dài sẽ dẫn đến bại liệt”.

Về nguyên tắc chữa trị, ông Trí cho biết trước tiên phải chẩn đoán đúng nguyên nhân gây bệnh mới có thể chọn lựa từng vị thuốc sao cho phù hợp. 

Bài thuốc đông y ông thường sử dụng gồm tất cả 17 vị với liều lượng cụ thể như sau: 


Độc hoạt (12g), 
phòng phong (12g), 
tế tân (5g), 
tần giao (12g), 
tang kí sinh (15g), 
đỗ trọng (15g), 
ngưu tất (15g), 
xuyên quy (15g), 
 xuyên khung (12g), 
thục địa (12g), 
bạch thược (15g), 
cam thảo (8g), 
bạch linh (12g), 
đẳng sâm (15g), 
nhục quế (4g), 
oai linh tiên (15g) 
thiên niên kiện (15g).

Về cách thức sử dụng thuốc, ông Trí cho biết chỉ cần trộn đều các vị đem sắc nước uống mỗi ngày chia thành 3 bữa sau khi ăn cơm. Ngoài ra tuỳ theo độ tuổi, thể trạng, mức độ nặng nhẹ của bệnh mà liều lượng những vị thuốc có thể tăng giảm khác nhau. Bởi vậy mỗi thang thuốc có thể uống một ngày hoặc chia thành các phần nhỏ uống nhiều ngày.

Thời gian uống thuốc trị bệnh thông thường kéo dài trên dưới 10 ngày. Đối với trường hợp bệnh nặng thời gian trị liệu thậm chí kéo dài hơn tháng. Công dụng của bài thuốc trên theo lời lương y Trí giải thích, sẽ giúp bệnh nhân giảm đau dần, khôi phục phần nào sự mềm mại của các khớp xương.

“Thuốc có chức năng bồi bổ khí huyết, tăng cường thể lực. Đối với người mắc bệnh do thoái hoá cột sống sinh gai thuốc sẽ tạo nên vỏ bọc bọc lấy chiếc gai này. Có thể hiểu đơn giản rằng khi được bọc kín gai sẽ không phát triển thêm và không tác động trực tiếp vào hệ thần kinh gây nên những cơn đau nhói nữa”, ông Trí giải thích.
Bốn vị cốt yếu trong bài thuốc đông y mà ông Trí cho biết có thể chữa khỏi bệnh thần kinh toạ.
Vị lương y bổ sung, bên cạnh việc uống thuốc trị liệu, người bị thần kinh toạ nên kết hợp song song phương pháp châm cứu, bấm huyệt nhằm tăng tác dụng của thuốc.

Bài cao thuốc nam trị chứng thần kinh toạ


Thẳng thắn chia sẻ kinh nghiệm bản thân trong việc chữa trị chứng bệnh thần kinh toạ, lương y Trí cho hay bệnh nhân có thể áp dụng bài thuốc nam nấu cao trị liệu. So với bài thuốc bắc, bài thuốc nam sau đây giúp tiết kiệm đáng kể chi phí nhưng tác dụng không hề thua kém.

Theo đó người bệnh sử dụng sáu loại thảo dược cơ bản để chế biến cao gồm: 


+ Gốc rễ cỏ xước, 
+ gốc rễ cây xấu hổ, 
+ rau má (mỗi loại ở dạng phơi khô 20g), 
+ lá lốt, 1 kg
+ cây hoa xích đồng nam 1 kg
+ bạch đồng nữ  1kg (ở dạng tươi). 

“Tất cả thảo dược trên có thể sử dụng ở cả hai dạng tươi hoặc khô, nếu dùng tươi thì hàm lượng tăng gấp đôi so với thuốc khô. Đem thảo dược rửa sạch, thái nhỏ sau đó sao vàng hạ thổ”, lương y Trí hướng dẫn cách chế biến nguyên liệu thảo dược.

Đến bước này người bệnh có thể bào chế thuốc theo nhiều cách khác nhau để sử dụng. Thức nhất đem thuốc nấu lấy nước uống hằng ngày hoặc cô cạn thành cao. Đối với phương pháp bào chế dạng cao, đòi hỏi liều lượng thuốc phải nhiều gấp 3 – 4 lần và bổ sung thêm mật ong. Cao càng đậm đặc, càng tăng công hiệu trị bệnh. “Riêng nấu cao cũng có đến hai dạng là lỏng hoặc dạng bánh. Chế biến dạng cao rất tiện sử dụng”, lương y Trí chỉ dẫn.

Về liều lượng sử dụng thuốc, ông Trí hướng dẫn tỉ mỉ tuỳ theo dạng thuốc như sau: 

“Nếu sắc nước, mỗi ngày uống một thang, uống trong vòng 10 - 15 ngày sẽ phát huy công dụng rõ rệt. Ở dạng cao lỏng mỗi ngày chỉ cần uống 1 - 2 tách nhỏ; còn cao bánh, mỗi lần ăn chú ý hấp mềm. Ngoài ra cũng có thể dùng cao thuốc ngâm rượu uống đều độ trước mỗi bữa ăn”.

Thú vị hơn, ông Trí cho rằng công dụng của loại cao thảo dược trên không chỉ đặc trị bệnh thần kinh toạ mà còn hỗ trợ điều trị nhiều bệnh khác.

Từ bệnh nhân trở thành thầy thuốc


Bất ngờ khi nghe lương y Trí tự thuật về cuộc đời mình. Ngày trước vốn ông không biết gì về thuốc thang, châm cứu. Chàng thanh niên lúc đó vẫn ấp ủ ước mơ trở thành thầy giáo: “Tôi may mắn đỗ vào ngành sư phạm nhưng bất ngờ bị bệnh thần kinh toạ. Bệnh ngày một nặng đến nỗi chân teo nhỏ bé tí nhấc đi không nổi. Dẫu gia đình đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng ai cũng lắc đầu bó tay, thế là tôi đành nghỉ học nằm liệt giường ở nhà gác lại mọi hoài bão”, ông Trí nhớ lại quãng thời gian giông tố trong đời.

Nhưng rồi số phận đã mỉm cười khi ông may mắn được người quen giới thiệu đến chữa bệnh tại một vị sư đồng thời là thầy thuốc. Sau sáu tháng trị liệu, bệnh tình ông Trí thuyên giảm đến bất ngờ: “Thật kì diệu, chỉ bằng châm cứu và uống thuốc đông y mà tôi đã đi lại như trước. Kể từ đó tôi xin thầy theo học nghề y luôn”.

Không chỉ học ở vị thầy cũng là ân nhân của mình, ông quyết tâm khổ luyện đèn sách để rồi vinh dự đứng trong hàng ngũ sinh viên tốt nghiệp trường trung cấp y Huế năm 1988. Quãng thời sau đó ông hồ hởi mang kiến thức nghề y học được trên ghế nhà trường bôn ba vào tận Đồng Nai cứu người.

Đến năm 1991 lương y Trí trở về sinh hoạt tại hội đông y Quảng Trị và nay trở thành phó chủ tịch hội đông y huyện Triệu Phong: “Tôi đem chính bài thuốc sư phụ đã chữa khỏi cho mình để chữa trị cho người khác. Tuy chỉ là cỏ cây hoa lá đơn giản nhưng tác dụng thật kì diệu. Bản thân tôi từng là bệnh nhân nên rất thấu hiểu tâm trạng người bệnh. Tôi muốn mọi người sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc đến bất ngờ như tôi năm xưa”.

Thêm câu chuyện khá thú vị nữa liên quan giữa nghề y và đời tư thầy Trí chính là chuyện tình của ông : “Vợ tôi lúc trước cũng là bệnh nhân đến nhà nhờ tôi chữa bệnh, sau vì cảm mến nhau nên gắn bó thành vợ chồng. Hay có thể nói nhờ nghề thuốc tôi đã lấy được vợ”.
Hơn 25 năm hành nghề y, ông Trí khẳng định nhiều bệnh nhân đã thoát khỏi bệnh thần kinh toạ nhờ hai bài thuốc mình đang chỉ dẫn. “Tôi không dám cam đoan chắc chắn nhưng tỉ lệ khỏi bệnh rất cao. Đặc biệt bài thuốc cao từ thảo dược ai cũng có thể tự chế để áp dụng”, ông khiêm tốn chia sẻ.

Để phòng trừ bệnh đau thần kinh tọa, cần tập luyện thể dục vừa sức thường xuyên để nâng cao thể lực. Nên áp dụng các bài tập tăng cường sự dẻo dai, khoẻ mạnh của các khối cơ lưng cạnh cột sống, cơ bụng và tăng sự mềm mại của cột sống. Tránh mọi chấn thương gây nên cho cột sống, người có dấu hiệu đau thắt lưng tuyệt đối tránh các trò thể thao hoặc vận động quá mức. Không nên nằm nệm quá dày, mềm và giường lò xo. Đối với những người lao động chân tay cần chú ý không mang vác vật quá nặng so với trọng lượng cơ thể.
Theo Mai Long - PLVN

29 thg 5, 2013

Bài thuốc chữa đau thần kinh tọa


 

Thầy Trần Công Bình

Tôi không phải là một thầy thuốc Đông hay Tây y,, chỉ là một giáo viên đã nghỉ dạy. Bản thân mình, đã hai lần bị đau ” Thần kinh tọa “. Hiện nay, sức khỏe đã bình thường. Tôi muốn ghi lại đây một vài kinh nghiệm từ việc điều trị bệnh đau thần kinh tọa của bản thân, ngỏ hầu nếu được, có thể giúp ích phần nào cho bà con xung quanh. Rất mong quý vị rành về nghề Y đóng góp thêm ý kiến.

Năm 1990, lần đàu tôi phát bệnh, lúc này trong khi cố gắng vác một bao phân xuống ruộng, với quãng đường khoảng 500 mét ( trước đó, vào năm 1983, có lần tôi đã bị ” Cụp xương sống ” do khiêng vác nặng), về nhà thấy chân bị mỏi và bắt đầu đau nhức, đau lan từ thắt lưng xuống sau mông, xuống tiếp phía sau đùi và đến gót chân, ngày càng đau nhức nhiều hơn, đi đứng, nằm ngồi, kể cả đi cầu rất khó khăn, mỗi lần thay đổi tư thế là một cực hình. Đến khám bệnh, bác sĩ Châu Hữu Hầu chẩn đoán tôi bị thoát vị đĩa đệm gây chèn ép và viêm chùm dây thần kinh (trong cột sống) dẩn đến bị “đau thần kinh toạ”.

Lần ấy tôi theo Tây y điều trị mỗi ngày, uống 3B (B1,B6,B12) + thuốc chống viêm+thuốc chống đau nhức+chích Terneurine H5000. Sau vài tháng mới bớt đau nhức và đi lại được, nhưng chân đau bị teo lại (khoảng8/10) so với chân không đau, sau gần một năm hai chân mới bình thường.

Đầu năm 1992, một lần nữa tôi phát bệnh (đau thần kinh toạ). Lần nầy, không phải đau chân trái mà đau chân phải.Lúc đầu, tôi cũng theo Tây y và điều trị như trên, nhưng còn thuốc trong người thì bớt đau nhức, hết thuốc thì đau nhức trở lại. Điều kiện kinh tế gia đình ngày một khó khăn, sức khoẻ ngày một kém. Đầu hè 1992 tôi nộp đơn xin nghỉ dạy, ở nhà chuyên tâm trị bệnh.

Trong thời gian nằm nhà điều trị bệnh, bạn bè, người thân, học trò đến thăm, người chỉ phương cách nầy, người đưa tài liệu kia…để tham khảo.Tôi để ý đến một số tài liệu:

Toa I:


Trị đau thần kinh toạ, có in trong quyển sách “Sổ tay Bệnh Lý&Điều trị Đông và Tây y”(tập III,bệnh ngoại và chuyên khoa,Hội Y Dược T.P Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992) do em Nguyễn Văn No ( hiện là BS trưởng khoa ngoại Trung Tâm Y Tế Tân Châu) cho mượn:

1/-Rễ lá lốt 12g

2/-Thiên niên kiện 12g

3/-Cẩu tích 16g

4/-Quế chi 8g

5/-Ngãi cứu 8g

6/-Chỉ xác 8g

7/-Trần bì 8g

8/-Ngưu tất 12g

9/-Xuyên khung 12g

(Đổ 500ml nước, nấu sắc còn 100ml, ngày uống một thang 2-3 lần nấu)

-Toa II: Toa thuốc ngâm rượu (2lít) trị: tê-nhức, bao tử(ngày uống một ly nhỏ trước khi ngủ)

1/-Lưu lợi  2chỉ

2/-Hồng hoa 1chỉ

3/-Đại hoàng 3c

4/-Quyết kiệt 1c

5/-Ngưu thất 3c

6/-Lục đoạn 2c

7/-Đơn qui 2c

8/-Mộc hương 3c

9/-Mộc hoa 2c

10/-Đỗ trọng 2c

(Toa thuốc nầy tôi ghi lại từ một chương trình phát hình của Đài Truyền Hình Cần Thơ, khoảng thời gian 1988-1990 do một nữ dược sĩ phổ biến mà tôi quên ghi tên. Khi tôi bệnh, anh bạn nông dân tên Hết ngụ ở ấp Long Thạnh B Tân Châu đến thăm và mang cho toa nầy, nói toa gia truyền của ai đó anh nhờ người dịch lại từ chữ Hán, tôi đối chiếu hai toa giống hệt nhau)

-Một số bài báo và tài liệu do hai em Trần Ngọc Thu (phòng Giáo Dục Phú Châu) và Cao Thanh Đừng (Trường C2 Tân Châu) cho mượn.

Lúc đầu,cũng ngại thuốc “Bắc” mắc tiền và không trị đúng bệnh, nhưng hằng ngày điều trị theo Tây y cũng khá tốn, mà còn thuốc trong người thì bớt đau nhức, hết thuốc thì đau nhức nhiều.Tôi thử đến tiệm Phước Sanh Đường, Sanh Sanh Đường.. ở Tân Châu bổ thuốc. Thật không ngờ, toa I chỉ có3000đ, toa II chỉ có 5000đ ( hiện toa I khoảng 5000đ, toa II khoảng 8000đ). Hằng ngày, nhờ vợ con nấu thang I (2-3 lần nấu, đến chừng nào thuốc lạt thì thôi. Trước khi ngủ (trưa và tối),uống thêm một cốc ruợu thang II. Sau vài ngày sử dụng, thấy bớt đau nhức, người ấm hơn, đi cầu nhẹ nhàng hơn.

Trong thời gian rảnh, dưởng bệnh, những tài liệu của em Thu & Đừng cũng giúp thêm cho tôi một ít. Thì ra, theo đông y, đau thần kinh toạ (phổ biến) do “kinh dớn” bị viêm, trời lạnh đau nhức nhiều, ăn đồ ăn có tính “hàn”(như rau má, nước dừa, khổ qua…)gây nhiều đau nhức, tắm tối với nước lạnh cũng gây nhiều đau nhức.

Ngoài sử dụng hai thang thuốc trên, tôi kết hợp”nằm lửa” (như đàn bà đẻ ở quê ngày xưa), bên dưới có lót lá đu đủ dầu (hoặc lá điều, dây lá cù lần, lá huệ chuối), cũng thấy người ấm hơn và đở đau nhức kết hợp với tập thể dục nhẹ những động tác chân và lưng.

Sử dụng hai thang thuốc trên được khoảng một tháng hết đau nhức. Tôi bỏ thang I và chỉ sử dụng thang II . Hiện tại, tôi vẫn còn ngâm rượu thang II, lâu lâu uống một cốc, không bị táo bón và tay chân..cũng đở tê mỏi sau những giờ lao động ở ruộng về, đi đứng không còn bị đau nhức, nhưng chân phải (chân đau) bị teo nhiều, bước đi khập khểnh, chân thấp chân cao.

Kể từ lúc phát bệnh đến khi hết đau nhức khoảng 6 tháng,trong đó sử dụng thuốc tây khoảng hơn 5 tháng đầu, thời gian sau chỉ dùng hai thang trên, nhưng bước chân vẫn khập khểnh, mãi đến tháng 9/1996(sau hơn bốn năm),một sự tình cờ, tôi mới đi đứng bình thường .

Tháng 9/1996, sau khi nhận được giấy báo của trường Đại Học Đà Lạt không đồng ý cho phép con tôi tiếp tục nghỉ học thêm một năm nửa để điều trị bệnh (tâm thần), phải trở lại trường tiếp tục học, nếu không phải bỏ học.Với sự thiết tha việc học của con, sau khi tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị, tôi quyết định đưa con trở lại Đà Lạt để tiếp tục học (đây là một quyết định sai lầm của tôi, đứa con phát bệnh trở lại, điều trị đến giờ vẫn chưa khỏi). Trong thời gian chờ đợi quyết định (một tuần), hàng ngày, hai buổi đi bộ từ chợ Hoà Bình đén trường (khoảng 2 km), đường Đà Lạt nhiều dốc, lên và xuống dốc đều phải cố sức giữ thăng bằng, khi trở về nhà, bước đi không còn khập khểnh mà không hay. Hiện sức khoẻ của tôi bình thường, vác lúa, rải phân, xịt thuốc sâu đôi khi vẫn làm như thường.

Sau nầy, có nhiều người trong xóm cũng đau thần kinh toạ, sử dụng hai toa trên đều có kết quả tốt. Tôi không phải là thầy thuốc nên không rõ “đau thần kinh toạ “ do bao ngyên nhân, nhưng nếu có bạn nào bị đau và có triệu chứng giống như tôi ở trên, hãy thử sử dụng xem sao, không hại gì sức khoẻ và không tốn hao bao nhiêu đâu, đừng ngại!

Trần công Bình,Tổ 13 ấp Long Hưng I, xã Long Sơn, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Bài này của Lương y Phan VăN Sang:
http://www.daophatngaynay.com/vn/tai-lieu/11283-Phuong-tri-benh-than-kinh-toa.html 

Phương trị bệnh thần kinh tọa


Chứng đau Thần kinh tọa phổ biến nhiều ở lứa tuổi 30-60. Nguyên nhân gây đau dây thần kinh tọa cũng có rất nhiều nhưng hay gặp là do thoát vị đĩa đệm, hẹp ống sống nguyên phát hay thứ phát do hậu quả của hư đĩa đệm, gây chèn ép rễ thần kinh liên quan, hẹp lỗ gian đốt sống, viêm ngoài màng cứng và những nguyên nhân khác.
Tọa  có nghĩa là ngồi. Đau chứng Thần kinh tọa ở đây là bỡi liên quan đường vận hành ở chân và eo lưng của đường kinh Bàng quang, Đởm và Vị, do nhiều nguyên nhân cơ năng hoặc thực thể ở bản thân dây thần kinh hoặc rễ thần kinh, cơn đau kéo dài từ thắc lưng qua mông dẫn xuống tận bàn cân, ngón chân.
Ngoài những đường kinh nói trên tôi còn quan tâm nhiều đến Đốc mạch, mà cột sống lưng có liên quan mật thiết đến Đốc mạch.
Chứng đau Thần kinh tọa phổ biến nhiều ở lứa tuổi 30-60. Nguyên nhân gây đau dây thần kinh tọa cũng có rất nhiều nhưng hay gặp là do thoát vị đĩa đệm, hẹp ống sống nguyên phát hay thứ phát do hậu quả của hư đĩa đệm, gây chèn ép rễ thần kinh liên quan, hẹp lỗ gian đốt sống, viêm ngoài màng cứng và những nguyên nhân khác.
Người thường măc phải bệnh này phần đông là nhân viên văn phòng, công nhân  bốc vác, người làm việc ở môi trường ẩm thấp…
Đầu tháng 01 năm 2008 tôi có tiếp một bệnh nhân tên trần Minh Năm 56 tuổi, cư ngụ tại huyện E’Hleo thuộc Tỉnh Đắc Lắc làm nghề xây dựng.
QUA TỨ CHẨN :
1.VỌNG : Nhìn  2 người con trai kẹp nách 2 bên giúp ông lê từng bước khó nhọc vào đến phòng khám của tôi, ngồi an vị trên ghế mà ông cứ nhăn mặt khóc ròng trông thật thảm hại khiến cho ai thấy cũng cảm nhận được cái đau đang hành hạ trên cơ thể ông.
Vẻ tiều tụy, ánh mắt thất thần qua nhiều đêm không ngủ.
2.VĂN: Nghe từng câu đứt quãng không rõ ràng, hơi thở mệt nhọc nên tôi yêu người nhà khai hộ.
3.VẤN : Theo lời khai của người nhà, bệnh nhân này phát sinh ra chứng đau nhức vùng cột sống thắc lưng lan tỏa qua 2 mông, chạy xuống khớp gối và dọc xuống tận mắt cá chân. Bệnh âm ỉ cũng đã lâu năm, nhưng do cuộc sống lao động nên không  có thời gian chạy chữa.
Đến khi phát bệnh đau dữ dội mới đi khám ở các tuyến dưới. Sau một thời gian nằm viện, được chích thuốc lúc bớt lúc không, đến lúc đau chịu hết nổi nên xin chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy Sài gòn, sau khi chụp Phim được Bác Sĩ chẩn đoán là thoái hóa cột sống lưng từ L1 đến S1.
Do bệnh không gì nguy hiển nên Bệnh viện bán thuốc rồi cho về, nhưng đau quá không ăn không ngủ được, giờ chuyển qua xin chữa Đông Y.
4. THIẾT : Huyết áp 11/7; mạch Tả Quan, Xích ( mạch Can, mạch Thận bên trái )Trầm hoạt.
Sau khi dùng 4 pháp chẩn như trên, xác định được nguyên nhân sinh ra bệnh, tôi mời ông nằm yên trên giường, đang trong cơn đau hoành hành của bệnh nhân tôi phải dùng những mũi kim châm cứu xuyên thấu qua từng huyệt đạo: Bá hội, Đại chùy, Đại trữ, Phong môn, Mệnh môn, Thận du, Hoàn khiêu, Thừa phò, Ủy trung, Dương lăng tuyền, Túc Tam lỳ, Tam am giao, Huyền chung, côn lôn…( luôn thay đổi huyệt trên chứ không châm hết một lần ) dùng nhịp rung của điện cực vừa tả vừa bổ cộng với ánh đèn hồng ngoại hơi ấm chiếu vào khiến cho bệnh nhân trong hơi thở êm ái ngủ ngon lành sau hơn tháng trời mất ngủ vì cơn đau hành hạ.
Cứ như thế mỗi ngày người nhà đưa ông đến để tôi châm cứu và dùng phương “Độc hoạt Tang ký sinh gia giảm” uông liên tục mỗi ngày. Hơn nửa tháng  điều trị, đến nay ông đã giảm đau đến 80%.
Ngày thứ Bảy vừa qua (19/01/2008), ông đã vui vẻ cho tôi biết, ông đã thử lên xe đạp chạy vòng vòng, thấy mình đã bớt đau nhiều nên chủ nhật hôm sau (20/01/2008) ông xin ngưng châm cứu và bổ thêm mươi thang thuốc về lại huyện nhà E’Hleo thuộc tỉnh Cao nguyên Dakak.
Làm cách nào mà tôi điều trị một bệnh nhân đang trong cơn đau mà giảm nhanh chóng như vậy ?
Xin thưa quý vị. Ở đây tôi không hề dùng  đến các loại thuốc Tây có tính chất gỉam đau của Tây Y.
Tôi xếp bệnh này thuộc hội chứng thoái hóa xương khớp, thể hiện cơn đau qua chứng Thần Kinh Tọa thuộc loại bệnh Phong Thấp Hàn.
Một Lương Y đồng nghiệp của tôi có đã viết như thế này:
Bệnh đau xương khớp vì sao ?
Thận hư, xương yếu, phong thấp vào mà sinh ra.
Như vậy, bệnh đau do xương khớp bị thoái hóa, hoặc vôi hóa là do gốc ở Can Thận bất túc đến mức quá hư suy, phong hàn thấp từ ngoài thừa thế xâm nhập vào mà sinh ra.
Bỡi  chức năng Thận là nuôi cốt tủy, chức năng Gan là nuôi dưỡng gân cơ.
Thận sinh ta Tinh, tinh hoa của thận chuyển qua ống xương thành tủy, tủy nuôi xương khớp, khiến cho xương khớp được cứng cáp.
Như vậy, Thận coi như là mẹ của xương khớp. Nếu mẹ ( là Thận ) thiếu bồi dưỡng ( trường hợp Phụ nữ huyết trắng, Nam di tinh  lâu ngày ) hoặc nam nữ trác tráng ( thất thoát nhiều khiến cho tinh khô huyết kém). Thận tinh suy kiệt  khiến cho xương khớp thoái hóa.
Tỳ vị ( chức năng tiêu hóa ), Tỳ hấp thu dinh dưỡng ( trong thức ăn) hợp với Can sinh ra huyết ( hệ thống Can Tỳ vị ). Can cung cấp dinh dưỡng nuôi các gân cơ. Nhưng Can huyết kém ( do thiếu dinh dưỡng ) không đủ cung cấp nuôi dưỡng gân cơ, gân cơ co duỗi khó khăn, đau mỏi.
Can Thận suy, tà khí ( hàn thấp, hoặc nhiệt thấp ) thừa thế xâm nhập vào sinh ra chứng Phong Thấp đau nhức.
Trong Đông y có câu “Cấp trị Tiêu, hoãn trị Bản”, nghĩa là bệnh đau gấp quá thì trị “Ngọn” ( làm giảm đau ), bệnh đau không gấp thì từ từ mà trị “Gốc” bệnh.
Vậy, bệnh nhân này là hàn thấp nên gây ra đau đớn các thần kinh cơ khớp là cái ngọn. Cái gốc là do Can Thận suy.
Can Tỳ Thận là gốc rễ tạo nên TINH-HUYẾT-KHÍ-THẦN-TÂN DỊCH.
Đối với bệnh nhân Trần Minh Năm này, vì muốn nhanh chóng bớt bệnh cho nên tôi vừa trị Tiêu, vừa trị Bản, nghĩa là vừa Tả ( loại trừ ) Phong hàn thấp vừa mạnh tay Bổ Can Tỳ Thận, bổ Can Tỳ Thận tức là bổ Chánh khí. Bỡi Tổ Lãn Ông có dạy : “ Chánh khí đắc lực tà vô dụng địa
Tà ở đây ám chỉ cho khí độc bên ngoài xâm nhập gây ra bệnh.
Chánh ở đây là chỉ cho Khí lực của Tỳ khí, Can khí, Thận khí ( bao gồm TINH-HUYẾT-KHÍ-THẦN-TÂN DỊCH : Tinh là tinh nam nữ, Huyết là máu, Khí là sức vận hóa, sức đề kháng, Thần: là sự nhận thức phân biệt, Tân Dịch là lượng nước trong cơ thể). 
Chánh khí đầy đủ thì trong thân ta bệnh tật không có chỗ dung chứa.
Y tổ Lãn Ông lại dạy : “Lương y như Lương tướng” Làm nghề Lương Y phải như một tướng tài biết điều binh, khiển trận.
Ngài Lãn Ông lại nói: “Y giả, ý dã, dụng dược như dụng binh” nghĩa là lương y sử dụng thuốc phải theo cái ý của mình, như dũng tướng biết điều binh nơi trận mạc vậy !
Đối với người bệnh trần Minh Năm này sinh sống ở vùng Cao nguyên xứ lạnh, thừa lúc suy yếu hàn thấp đã xâm nhập vào các kinh mạch gây nên đau nhức dữ dội. Để ôn bổ ( bổ ấm ) Can, Tỳ, Thận qua các Kinh mạch, tôi phải dùng các vị thuốc thuộc nhóm Dương dược để trừ chứng Hàn Thấp như: Đỗ trọng, Tục đọan, Cốt toái bổ, Cẩu Tích, Phụ tử, Quế chi (để tẩu tán 12 kinh mạch), thân cây lá lốp (Tất bát), ngưu tất để dẫn thuốc thấm sâu vào tận xươn tủy và đi xuống dưới tận dưới bàn chân vì thế mấ ngày sau bệnh nhân Trần Minh Năm hỏi tôi: “ Sao uống thuốc vào thấy nó chạy rầng rầng, mà chạy đến đâu nóng đến đó thêm đau nhức dữ quá.
Tôi trả lời: “ Anh yên chí và chịu đau chút đi, vì đó là theo ý của tôi đó. Bỡi lâu nay anh bị thấm lạnh nên kinh mạch, khí huyệt bị  ngưng trệ, nay cho thuốc vào để  khai thông , nên thuốc chạy đến đâu nó phá ứ đến đó nên phài đau chút vậy đó, vài hôm sẽ hết thôi.”
Vài hôm sau ông lại hải: “ Thầy ơi , hôm nay thì hết đau nhức, nhưng giờ thuốc chạy đến đâu thì nổi mề đai ngứa đến đó.?”
Nghe qua tôi sực nhớ lời ngài Hải thượng Lãn Ông có dạy: “ Đánh giặc thì phải mở cữa thành”.
Thế là tôi gia thêm các vị như : Đại hoàng ( hoặc lá muồng trâu ), Trạch tả ( hoặc rễ tranh ), lúc bấy giờ đường đại tiểu tiện ông thông thoáng, bài tiết hết các chất độc trong cơ thể ra ngoài ông hết phong độc , hết ngứa, ăn ngủ được yên.
Y Tổ Lãn Ông còn dạy: “ Trị phong tiên trị huyế, huyết hành phong tự diệt
Như vậy chưa đầy một tháng mà bệnh nhân Trần Minh Năm đã bớt bệnh nhanh chóng và trở về Daklak  sum họp với gia đình thân quyến, với bạn bè và đã hưởng một mùa xuân Nhâm Tý( 2008) tràn đầy vui tươi và hạnh phúc.
Đó là niềm vui và một trong những thành quả đã đạt được trong nghề chữa bệnh của tôi xin được chia sẻ đến với mọi người, nói thế nhưng trình độ vẫn còn hạn hẹp, nếu các bậc cao minh có thấy những điều sai sót, lương y Phan văn Sang tôi xin được học hỏi thêm.
Thần kinh tọa lâu ngày, teo cơ đùi, do đau vùng cột sống, thắc lưng qua 2 bên mông ( hoặc 1 bên ) chạy dọc xuống chân đến mắc cá, Thần Kinh Tọa lâu ngày muốn liệt cả 2 chân, đau không chịu nổi.

Phương thuốc:


Thục địa 12 gam
Xuyên khung 10 gam
Đương quy 12gam
Tục đoạn 16 gam
Tang Ký sinh 16gam
Ngưu tất 16 gam
Đãng sâm 16 gam
Huỳnh kỳ 12 gam
Cam thảo 4gam
Bạch Truật 12 gam
Bắc Chánh Hoài 12 gam
Tỳ giải 12 gam
Hà Thủ ô 16gam
Bắc đỗ trọng 16gam
Hồ Đào nhân 9gam
Cẩu tích 12gam
Cốt toái bổ 12gam
Phòng phong 10gam
Độc hoạt 12gam
Khương hoạt 12gam
Nhủ hương 8gam
Mộc dược 8g
Xích thược 8gam
Đơn bì 8gam.
Tế tân 8gam

Xưa nay chữa cho người bệnh Thần Kinh Tọa tôi chỉ dùng bài này, nhưng phải linh hoạt gia giảm cho hợp cơ địa người bệnh mới mong chóng khỏi.
Nhưng cũng tùy cơ địa mỗi người mà gia ( thêm vị thuốc vào), giảm ( bỏ bớt những vị thuốc ra vì không hợp hàn hay nhiệt của người bệnh )
Ví dụ người bệnh có kèm huyết áp cao , gia Rễ nhàu, tăng vị Đỗ Trọng, Ngưu tất vào v.v..
Người ốm yếu mệt mỏi gia Tăng vị Đãng sâm, gia Huỳnh kỳ…..
Lần lượt tôi sẽ chia sẻ những phương kinh nghiệm cho tất cả mọi người. Mong sao ai ai cũng chóng khỏi bệnh, đem lại sức khỏe và niềm vui cho mọi nhà.
Nếu quý vị không thể tự gia giảm, xin liên hệ tôi với số ĐT 0902323549 ,
hoặc Email : luong_y_sang@yahoo.com

Phật tử lương y PHAN VĂN SANG