6 thg 1, 2018

Chữa đau dạ dày bằng nghệ - cỏ mực


Nghệ tuoi 1 củ 30 g 
Cỏ nhọ nhồi tươi một lắm chặt .
Cả hai thứ giã nát lấy nước cốt bỏ bã .cho vào đun sôi để nguội 
Cho 2 thìa mật ong vào uống 
Uống truoc bữa ăn sáng (chưa ăn gì)
Chú ý mật ong phải cho vào khi thuốc đã nguội mới ko mất hoạt chất kháng sinh .
Uống liên tục 10 ngày khỏi .
Kiêng tuyệt đối rượu bia .đồ cay nóng .chất kich thích .măng tươi đặc biệt là tiêu bắc.
Không thức khuya .làm việc qúa sức .

2 thg 1, 2018

Điều cấm kỵ khi sử dụng ba kích ngâm rượu




  • 27
Theo các chuyên gia đông y, rễ của cây ba kích rất tốt cho sức khoẻ, có thể ngâm rượu hoặc dùng làm thuốc. Tuy nhiên nếu không biết dùng rất hại.
Anh Nguyễn Văn Thắng, trú tại Ninh Giang, Hà Dương 34 tuổi, tâm sự, năm ngoái anh đi Quảng Ninh chơi. Thấy mọi người mua củ ba kích về anh Thắng cũng mua một ít về ngâm rượu.
Ai cũng nói ba kích bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lý. Anh Thắng mua về để dùng riêng cho mình với hi vọng “ông khoẻ bà vui”. Sau khi rửa sạch, phơi héo, anh Thắng cho vào ngâm rượu.
Một tháng sau ngó bình rượu anh thấy rượu tím rất ngon và thơm, vị mát mát. Ngày nào anh Thắng cũng đều đặn làm 2 cốc trong bữa cơm. Anh cũng mong chờ sự thay đổi trong chuyện chăn gối của mình. Uống hết cả bình 20 lít rượu ba kích, anh Thẳng thấy ngày càng mất cảm giác yêu.
Ngày trước, một tuần anh có nhu cầu 2 lần thì đến giờ 1 tháng mới có 1-2 lần. Cùng với tâm lý chờ đợi, anh Thắng rơi vào trạng thái trên bảo dưới không nghe.
Không biết lý do tại sao, anh Thắng rất lo lắng. Anh Thắng tâm sự với bà chị họ. Khi nghe anh kể việc ngâm ba kích, người quen của anh đã bất ngờ vì anh không tước bỏ lõi củ ba kích đi. Lõi củ ba kích không tốt cho sức khoẻ.
Có thể đã “chữa lợn lành thành lợn què”, anh Thắng tìm đến một vị lương y xem mạch. Bác sĩ bắt mạch thấy anh bị thận hư, có dấu hiệu hư dương, mệt mỏi.
Anh Đỗ Văn Thận trú tại Thái Bình cũng tâm sự, mấy năm trước được người quen tặng cho ba kích về ngâm rượu. Cứ nghĩ chỉ rửa rồi ngâm nên anh làm theo. Khi mang ba kích củ dài nhìn rất đẹp mắt ra đãi khách không ai dám uống. Những người hiểu về củ ba kích khuyên anh nên đổ bình rượu đi vì anh đã ngâm không đúng cách có thể hại cho sức khoẻ.
Anh Thận kể chưa biết hại như thế nào nhưng chỉ nghe nói rễ cây ba kích không bỏ lõi sẽ thành thuốc độc là anh bỏ đi luôn không tiếc.
Dieu cam ky khi su dung ba kich ngam ruou hinh anh 1
Củ 3 kích.

Bắt buộc bỏ lõi

Theo lương y Bùi Hồng Minh – Chủ tịch hội Đông y Ba Đình, Hà Nội, ba kích (Radix Morindae officinalis) là rễ của cây ba kích hay dây ruột gà (Morinda officinalis How), họ cà phê (Rubiaceae). Ba kích thuộc loại cây thảo, leo bằng tua quấn, dài hàng mét. Thân non màu tím, có lông, sau nhẵn.
Lương y Minh cho biết trong đông y, ba kích có vị cay, ngọt, tính ấm. Quy kinh thận. Có tác dụng bổ thận, tráng dương. Với những trường hợp bị thận dương suy, dẫn đến các chứng di tinh, tảo tiết (xuất tinh sớm) hoặc phụ nữ đau bụng dưới (đau phần phụ), muộn con hoặc các trường hợp đau lưng đau gối, đau xương khớp…
Có thể sử dụng ba kích để ngâm rượu, hay kết hợp với các bài thuốc khác để tăng thêm tác dụng cho củ ba kích. Lương y Minh cho biết, có một điều không phải ai cũng biết, đó là ngâm củ ba kích nguyên cả dây rễ cần loại bỏ cái lõi của củ ba kích.
Lõi củ ba kích không tốt, nó có thể đi ngược tác dụng của củ ba kích, gây liệt dương. Lương y Minh đã gặp trường hợp bị liệt dương do sử dụng củ ba kích lâu năm mà sai cách. Khi sử dụng củ ba kích dưới bất kỳ hình thức nào bắt buộc chỉ lấy phần thịt của củ.
Bình thường, khi chế biến, chúng ta có thể rửa sạch ba kích để ráo nước, tiến hành bóc lõi bỏ đi, chỉ lấy lại phần thịt của củ sau đó ngâm rượu hay kết hợp với các bài thuốc khác.
Ngoài ra, người ta có thể sử dụng ba kích phối hợp với một số vị thuốc khác để tăng thêm tác dụng như thuốc hoàn ba kích: ba kích 80g, sừng hươu 200g, tiểu hồi 60g, phụ tử chế 16g, quế nhục 30g, thục địa, hoài sơn, mỗi vị 160g, mật ong vừa đủ làm hoàn. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần 16 – 20g nếu không uống được rượu.
 http://infonet.vn/dieu-cam-ky-khi-su-dung-cu-ba-kich-ngam-ruou-ma-khong-phai-ai-cung-biet-post201474.info
Theo P.Thúy/Báo Infonet

31 thg 12, 2017

Hoàng bá nam và tác dụng chữa bệnh của hoàng bá nam



Tên khác: Vỏ Núc nác, Nam hoàng bá. 

Tên khoa học: Vị thuốc là vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Núc nác (Oroxylon indicum Vent.), họ Chùm ớt (Bignoniaceae). 

Mô tả: Cây: Cây nhỡ, cao 5-13m. Thân nhẵn, ít phân cành, vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng. Lá xẻ 2-3 lần lông chim, dài tới 1,5m. Hoa màu nâu đỏ sẫm mọc thành chùm dài ở ngọn thân. Đài hình ống, cứng, dày, có 5 khía nông. Tràng hình chuông, phình rộng, có 5 thuz họp thành hai môi, 5 nhị, có chỉ nhị có lông ở gốc. chuông, phình rộng, có 5 thuz họp thành hai môi, 5 nhị, có chỉ nhị có lông ở gốc. 120cm, rộng 5-10cm, các mảnh vỏ hoá gỗ. Hạt dài 4-9cm, rộng 3-4cm, kể cả cánh mỏng bao quanh. Hoa nở về đêm, thụ phấn nhờ dơi. Hoa và quả từng lúc quanh năm. Các quả chín vẫn ở trên cây khá lâu vào mùa khô khi cây rụng hết lá. 

Dược liệu: Vỏ cuộn lại thành hình ống hay hình cung, dày 0,6 – 1,3 cm, dài ngắn không nhất định. Mặt ngoài màu vàng nâu nhạt, nhăn nheo, có nhiều đường vân dọc, ngang. Mặt trong nhẵn, màu vàng xám hay vàng lục. Mặt bẻ ngang có lớp bần mỏng. Mô mềm vỏ lổn nhổn như có nhiều sạn, trong cùng có lớp sợi dễ tách theo chiều dọc. Bộ phận dùng: Vị thuốc là vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Núc nác (Oroxylon indicum Vent.) Phân bố: Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi khắp nước ta. 

Thu hái: Thu hái quả nang chín màu nâu vào mùa thu và đông, phơi khô ngoài nắng cho vỏ nứt hạt, tách lấy hạt và phơi tiếp cho đến khô. Vỏ cây thu hái quanh năm; khi cần thiết, đẽo vỏ trên cây, thái phiến dài 2 – 5 cm, phơi hay sấy khô. Tác dụng dược lý: Có tác dụng chống viêm, chống dị ứng rõ rệt. Tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân bất lợi từ bên ngoài vào cơ thể. Làm giảm độ thấm của mạch máu. Thành phần hoá học: Vỏ và hạt chứa một hỗn hợp flavonoid và chất đắng kết tinh là oroxylin. Vỏ chứa baicalein và chrysin. Hạt cüng chứa oroxylin và một chất dầu chứa 80,40% acid oleic, acid palmitic, acid stearic và acid lignoceric. 

Công năng: Hạt có tác dụng thanh phế nhiệt, lợi hầu họng, chống ho, giảm đau, vỏ thân có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp. Các flavonoid trong vỏ cây và hạt có tác dụng đối với bệnh mày đay và mẩn ngứa và còn có tính kháng trùng. Công dụng: + Lá hoa và quả khi còn non đều ăn được sau khi đun nấu. Người ta thường lùi quả non vào trong tro than rồi đem bóc bỏ vỏ ngoài, lấy phần trong của quả xào ăn. Hạt, vỏ thân thường được dùng làm thuốc. 

+ Hạt dùng trị: 1. Viêm họng cấp và mạn tính, khan cổ; 2. Viêm phế quản cấp và ho gà; 3. Đau vùng thượng vị, đau sườn. 

+ Vỏ thân được dùng trị: viêm gan vàng da, viêm bàng quang, viêm họng, khô họng, ho khan tiếng, đau dạ dày, dị ứng trẻ em ban trái, sởi. Cüng dùng chữa dị ứng sơn, trị bệnh vẩy nến, hen phế quản trẻ em. 

Trong dân gian dùng thay Hoàng bá. Cách dùng, liều lượng: Ngày 8 – 16g, dạng thuốc sắc, hoàn tán. 1,5-3g hạt, 8-16g vỏ thân, dạng thuốc sắc. 

Có thể nấu thành cao hay chế dạng bột. 

Dùng ngoài nấu nước rửa hoặc dùng cao bôi. 

Ở nước ta Viện Dược liệu đã sản xuất nunaxin viên 0,25g từ hỗn hợp các flavonoid để chữa mày đay và mẩn ngứa, dùng vỏ Núc nác làm viên Habanin kháng trùng và một loại viên kết hợp 2 dạng thuốc trên. Bào chế: Loại bỏ tạp chất, cạo bỏ lớp bần, rửa sạch, thái phiến chiều dài 2- 5 cm, bề dày 1-3 mm, phơi khô, hoặc sao nhỏ lửa cho đến khi bề mặt dược liệu có màu vàng. 

Bài thuốc: 1. Ngoài da lở ngứa, bệnh tổ đĩa ngứa giữa lòng bàn tay, bệnh giang mai lở loét: Vỏ Núc nác, Khúc khắc, mỗi vị 30g, sắc uống hàng ngày. 

2. Chữa đau dạ dày: Dùng vỏ núc nác, sấy khô tán thành bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 2-3g (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam). 

3. Chữa kiết lỵ, đau dạ dày ợ hơi, ợ chua: Dùng hạt núc nác phơi khô, tán thành bột mịn, hoặc sắc uống mỗi ngày 8-10g (Trồng hái và dùng cây thuốc). 

4. Chữa viêm phế quản, ho lâu ngày: Mộc hồ điệp 10g, đường phèn hay kẹo mạch nha 30g, nước 300ml sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam). 

5. Viêm đường tiết niệu, đái buốt ra máu: Vỏ núc nác, rễ Cỏ tranh, Mã đề mỗi thứ một nắm, sắc nước uống. 

6. Ho lâu ngày: 5-10g hạt, sắc nước hoặc tán bột uống. 

7. Lở do dị ứng sơn: Vỏ Núc nác nấu cao, dùng uống và bôi vào chỗ lở. 

8. Chữa viêm khí quản cấp tính, ho gà: Dùng mộc hồ điệp 4g, an nam tử 12g, cát cánh 6g, cam thảo 4g, tang bạch bì (vỏ trắng rễ cây dâu tằm) 12g, khoản đông hoa 12g. Sắc lấy nước, thêm 60g đường phèn vào hòa tan, chia uống nhiều lần trong ngày (Hiện đại thực dụng trung dược). “An nam tử” là tên dùng trong đơn thuốc của vị “bạng đại hải”, tức là hạt “lười ươi” (Sterculia lychnophora Hance.), có mọc ở Biên Hòa, Bà Rịa, Bình Ðịnh, Bình Thuận, Phú Yên, Quảng Trị… 

9. Chữa sỏi thận, sỏi bàng quang: Dùng vỏ núc nác 16g, chi tử (quả dành dành) 20g, mã đề thảo (lá và bông mã đề) 20g, xương bồ 8g, mộc thông 12g, tz giải 30g, quế chi 4g, cam thảo đất 20g; Sắc nước, chia 2 lần uống trong ngày vào lúc đói bụng (Thuốc Nam và Châm cứu). 

Kiêng kỵ: Người hư hàn gây đau bụng, đầy bụng tiêu chảy không dùng. 

Ghi chú: Hạt Núc nác cüng là vị thuốc, có tên là Mộc hồ điệp, có tác dụng chữa ho lâu ngày, viêm khí quản, đau dạ dày. 

Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh. 

Nguồn bài viết: http://agarwood.org.vn/hoang-ba-nam-va-tac-dung-chua-benh-cua-hoang-ba-nam-3631.html