28 thg 4, 2012

Lời dặn dò của cha dành cho con gái

Một người không tốt với con, con không nên quá bận tâm. Trong cuộc sống của con, không ai phải có nghĩa vụ đối tốt với con trừ cha mẹ. Còn với những người tốt với con, con nên trân trọng và biết ơn điều đó. Nhưng con cũng cần phải có chút đề phòng bởi mỗi người khi làm bất cứ việc gì đều có mục đích riêng. Hãy nhớ, họ tốt với con không đồng nghĩa với việc họ phải quý mến con.

Không có ai là không thể thay thế, không có vật gì thuộc hoàn toàn sở hữu của con. Vì thế, nếu sau này người con yêu thương không còn ở bên, hay họ không còn là nơi con có thể đặt niềm tin, con cũng đừng bi lụy. Sinh mệnh con người thực sự ngắn ngủi, con đừng để mỗi ngày trôi đi vô ích. Người ta tham vọng sống lâu nhưng con chỉ cần sống hạnh phúc mỗi ngày. Hãy trân trong và yêu lấy cuộc sống hiện tại của con.

Trên đời này không có gì là nhất cả, tình yêu chỉ là cảm giác bất chợt đi qua cuộc đời con, nhưng nó sẽ theo thời gian và lòng người mà thay đổi. Nếu như người đó rời xa con, con hãy học cách chờ đợi. Hãy để thời gian rửa sạch vết thương, để tâm hồn con lắng lại rồi nỗi đau của con cũng sẽ dần biến mất. Con đừng mơ ước một tình yêu hoàn hảo, cũng đừng thổi phồng nỗi đau khi nó không còn.

Có những người thành đạt mà không cần trải qua nhiều trường lớp, nhưng điều đó không có nghĩa con thôi nỗ lực học tập. Kiến thức con học được chính là vũ khí con cần có, hãy nhớ người ta không thể làm gì nếu họ chỉ có tay không.

cha va con gai Lời dặn dò của cha dành cho con gái

Con không nhất thiết phải chăm sóc cha nửa cuộc đời còn lại và cha cũng thế. Khi trưởng thành, con có thể tự mình bước đi, trách nhiệm của cha cũng đã kết thúc. Sau này dù con hạnh phúc hay buồn đau, con đều phải tự mình lựa chọn và có trách nhiệm với nó.

Con có thể bắt mình phải giữ chữ tín, nhưng không thể yêu cầu người khác làm thế với mình. Con có thể yêu cầu bản thân phải đối đãi tốt với người, nhưng con không thể kì vọng người ta sẽ làm ngược lại. Khi con tốt với họ, họ không có nghĩa vụ phải tốt lại với con. Hãy nhớ điều này nếu không con sẽ luôn gặp ưu phiền trong cuộc sống.

Cha đã mua vé số trong 26 năm thế nhưng chưa một lần trúng, điều đó nói lên rằng muốn giàu có phải dựa vào nỗ lực làm việc của bản thân, trên đời này không có bữa ăn nào là miễn phí cả.

Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau,cho dù trong cuộc sống bận rộn con ít khi gặp mọi người, nhưng con hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương con hơn, và hãy gọi điện cho mẹ con.

Sưu tầm

7 thg 3, 2012

Chữa u xơ tiền liệt tuyến bằng liệu pháp tự nhiên

U xơ tiền liệt tuyến (TLT) là một chứng bệnh phổ biến ở phần lớn nam giới lớn tuổi. Bệnh có thể phát triển dần dần qua thời gian mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng. Tuy nhiên, nó có thể làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu, gây mất ngủ về đêm và dễ dẫn đến tâm lý căng thẳng, ức chế do trở ngại trong sinh hoạt hoặc trong giao tiếp. Liệu pháp tự nhiên có thể giúp điều trị hoặc ngăn chặn sự phát triển của bệnh, để cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống.

TLT là một tổ chức nhỏ bao quanh niệu đạo, nặng khoảng từ 15-20g, nằm ở đáy bàng quang, phía sau xương mu và trước trực tràng. Chức năng chính của tuyến là sản xuất ra chất dịch làm môi trường vận chuyển tinh trùng và tạo thành tinh dịch trong hoạt động giao phối. TLT chỉ có ở nam giới. Tuyến thường phát triển ở tuổi dậy thì, đến khoảng 20-25 tuổi thì bắt đầu ổn định. Tuy nhiên, đến sau 40 tuổi, TLT thường có khuynh hướng phát triển bất thường, được gọi là phì đại lành tính TLT. Sự phì đại của tuyến gây ra một số rối loạn chức năng của thận và bàng quang. Tỷ lệ mắc bệnh và mức độ trầm trọng của bệnh thường gia tăng theo độ tuổi. Số liệu thống kê cho thấy, có trên 50% nam giới ở độ tuổi từ 60-70 tuổi bị u xơ TLT. Đến 80 tuổi tỷ lệ này lên đến 88%. Sự phát triển bất thường vừa làm suy giảm chức năng của tuyến vừa gây chèn ép niệu đạo, làm cản trở sự bài tiết nước tiểu.

Triệu chứng biểu hiện

Sự chèn ép của tuyến vào cổ bàng quang làm cản trở đường tiểu, gây ra một số triệu chứng thuộc 2 nhóm:

Hội chứng kích thích như: hay mót tiểu, phải tiểu gấp, khó nín tiểu, tiểu nhiều lần trong ngày.

Hội chứng tắc nghẽn như: tiểu ít, tiểu nhỏ giọt, tiểu ngắt quãng, tiểu không thành tia, tiểu không hết nước tiểu trong bàng quang.

Nguyên nhân gây bệnh

Các nhà khoa học cho rằng bệnh có liên quan đến những rối loạn về nội tiết tố sinh dục. Theo Đông y, TLT và sự bài tiết nước tiểu liên quan trực tiếp chức năng khí hóa của thận và bàng quang. Ngoài ra, khí hóa ở tam tiêu đều có tác động phối hợp của 2 tạng tỳ, phế. Tỳ chủ thăng, chủ về cơ nhục và chủ về vận hóa thủy dịch, phế chủ khí và chủ về túc giáng. Ở người lớn tuổi, bên cạnh việc suy nhược chức năng của tỳ, thận, chế độ ăn uống, sinh hoạt và những căng thẳng tâm lý trong cuộc sống đều có ảnh hưởng đến việc phát triển u xơ. Những cảm xúc không thuận lợi về tình dục như: suy nhược sinh dục, áp lực không đáp ứng được nhu cầu của bạn tình, đọc sách báo, xem phim ảnh hoặc suy nghĩ quá nhiều về tình dục, tình dục không được thỏa mãn đều có khả năng kích động tướng hỏa dễ gây uất nhiệt. Uất nhiệt kết tụ lâu ngày kết hợp với tỳ khí hư nhược, khí hư hạ hãm, dễ dẫn đến khí trệ, huyết ứ và phát triển thành u xơ ở vùng hạ tiêu đối với cả nam cũng như nữ.

Điều trị dùng thuốc

Phép chữa u xơ TLT chủ yếu là bổ tỳ, thận. Tùy theo chứng, có thể gia thêm các vị thuốc để giải khí uất, hành khí hoạt huyết, lợi tiểu hoặc tiêu u xơ.

Bài thuốc 1

Đây là một bài thuốc kinh nghiệm để chuyên trị các trường hợp u xơ TLT. Qua phân tích có thể thấy bài thuốc có sự phối hợp của 2 cổ phương quy tỳ và lục vị gia thêm nhục thung dung, câu kỷ tử, đỗ trọng và ngưu tất để tăng cường thận khí. Quy tỳ có tác dụng kiện tỳ, an thần, bổ khí, thường dùng để chữa các chứng suy nhược, kém ăn, khó ngủ do lao nhọc hoặc do tình chí uất kết. Lục vị là một cổ phương thông dụng để bổ thận âm. Điểm đặc biệt của bài thuốc là chỉ “bổ chính” mà không “công tà”. Khi chính khí vượng, chức năng của tỳ, thận điều hòa, khí hóa tam tiêu sẽ thông suốt, cơ nhục sẽ săn chắc (vì “tỳ chủ cơ nhục”), TLT sẽ dần dần thu liểm và đường tiểu sẽ thông. Vì là phương bổ nên ngoài việc điều trị u xơ, bài thuốc này có thể dùng để chữa các chứng suy nhược sinh dục ở nam giới do tỳ, thận lưỡng hư, hay mệt mỏi, ăn ít, tinh kém, xuất tinh sớm.

Thục địa 16g, ngưu tất 12g, viển chí 8g, hoài sơn 12g, nhục thung dung 12g, táo nhân 8g, sơn thù 12g, câu kỷ tử 12g, long nhãn 8g, mẩu đơn bì 8g, trần bì 8g, cam thảo 8g, trạch tả 12g, hoàng kỳ 32g, đại táo 3 quả, bạch phục linh 12g, đảng sâm 24g, gừng sống 3 lát, đỗ trọng 12g, bạch truật 12g.

Đổ 4 chén nước, sắc còn hơn nửa chén. Lần 2 đổ 3 chén nước sắc còn nửa chén. Trộn đều 2 lần thuốc, chia làm 2 lần, uống trong ngày. Uống khoảng từ 7-10 thang. Sau đó, thỉnh thoảng uống lại một vài thang để bồi bổ cơ thể.

Bài thuốc 2

Bài thuốc này thiên về bổ khí, lợi tiểu và tiêu u xơ. Ngoài việc kiện tỳ bổ khí, tăng cường trương lực cơ, phương thang này có nhiều vị thuốc để hoạt huyết, tiêu ứ, làm tan chỗ kết tụ, nên chỉ dùng để điều trị u xơ, không dùng cho trường hợp bồi bổ thông thường.

Đảng sâm 24g, đương quy 20g, nga truật 12g, hoàng kỳ 32g, bạch truật 16g, đào nhân 12g, thục địa 20g, bạch phục linh 12g, tô mộc 12g, tỳ giải 16g, xa tiền 12g, xích thược 12g, mộc thông 16g, tam lăng 12g, đan sâm 12g, táo 3 quả, gừng sống 3 lát.

Sắc uống từ 1-3 thang. Sau đó vẫn nên tiếp tục uống theo bài 1 ở trên. Cả 2 bài thuốc đều không dùng được trong trường hợp cơ thể có các chứng viêm nhiễm đang phát triển.

Điều trị không dùng thuốc

Vận động thân thể

Theo Y học cổ truyền “tỳ chủ tứ chi và cơ nhục”. Vận động cơ bắp và khí hóa của tỳ, vị có liên quan mật thiết với nhau. Ở người cao tuổi và những người kém vận động thể lực tỳ, vị thường suy yếu biểu hiện qua việc kém ăn, sức không bền, dễ mệt mỏi, cơ bắp mềm nhũn. Do đó, rèn luyện thân thể trong điều kiện sức khỏe cho phép là biện pháp tự nhiên và quan trọng để kiện tỳ. Vận động thân thể vừa giúp nâng cao sức khỏe, cải thiện tim mạch vừa làm săn chắc cơ bắp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nhiếp các cơ vùng xương chậu, kể cả TLT. Cách vận động đơn giản nhất là đi bộ, đi từ chậm đến nhanh dần. Mỗi lần khoảng 30 phút, mỗi tuần 5 lần.

Bài tập làm săn chắc các cơ vùng xương chậu

Thực hành phương pháp thở bụng nghịch sau đây có thể giúp cải thiện tình trạng yếu liệt các cơ vùng xương chậu bao gồm cơ vòng hậu môn, cơ vòng bàng quang, các cơ sinh dục và cả TLT. Ngồi ở tư thế ổn định. Ngồi xếp bằng thông thường hoặc ngồi trên ghế, chân chạm đất. Tập trung tư tưởng vào vùng xương chậu, hít vào trong khi cố nhíu chặt nhị âm (bộ phận sinh dục và hậu môn), thở ra trong khi từ từ buông lỏng toàn thân. Lập lại động tác khoảng 10 lần tương ứng với 10 hơi thở. Mỗi ngày có thể tập 1 lần.

Thư giãn thần kinh và cơ bắp

Căng thẳng tâm lý, khí uất là một yếu tố quan trọng trong cơ chế sinh bệnh hoặc phát triển bệnh, kể cả u xơ TLT. Những cảm xúc, những ức chế về tình dục cần phải được giải quyết, thư giãn triệt để hoặc cho thăng hoa.

Do đó những sinh hoạt dưỡng sinh, ngồi thiền đặc biệt là những tư thế yoga có tác dụng thư giãn cơ bắp, thư giãn được thần kinh hóa giải stress sẽ đáp ứng tốt quá trình điều trị u xơ TLT.

Ăn nhiều rau quả tươi

Việc phát triển u xơ TLT có liên quan đến yếu tố tuổi tác, đến quá trình lão hóa. Trong những thập niên gần đây, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến những chất chống oxy hóa và xem đây là một biện pháp quan trọng để làm chậm lại quá trình này. Trong lớp màng ngoài của các loại ngũ cốc, các loại hạt, các loại đậu và cả trong những rau quả tươi, nhất là các loại rau màu xanh đậm, màu vàng hoặc màu đỏ có hàng ngàn chất chống oxy hóa khác nhau bao gồm các sinh tố C, E, các chất lycopen, beta caroten, selenium. Đây là những chất chống oxy hóa rất tốt, có khả năng tăng cường hệ miễn dịch, trung hòa những gốc tự do và chống lại sự phát triển của những tế bào bất thường. Trên thực tế, có nhiều trường hợp u xơ ở cả nam lẫn nữ đã thu nhỏ lại hoặc bị mất hẳn chỉ bằng chế độ ăn uống thích hợp. Thông thường, người bệnh cần trải qua một vài ngày tiết thực trước khi thực hành chế độ ăn uống bằng rau quả và ngũ cốc thô.

Lương y Võ Hà

CHỮA PHÙ THẬN BẰNG BÀI THUỐC “CHỮA VIÊM – SỎI ĐƯỜNG TIẾT NIỆU” GIA HUỲNH KỲ, XA TIỀN, TRẠCH TẢ…

 ***
I/ PHÁT HIỆN TÁC DỤNG MỚI CHỮA GAN - THẬN HƯ SUY, TỪ BÀI THUỐC CHỮA SỎI THẬN ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU:


Bài thuốc viêm sỏi đường tiết niệu, đã được nghiên cứu và đã được UBKH&KT tỉnh Thuận hải tài trợ kinh phí và nghiệm thu đề tài từ năm 1988 – 1989. Từ đó đến nay đã 20 năm, chúng tôi áp dụng điều trị rất hiệu quả và cũng đã đi báo cáo tại “Hội nghị Khoa học kỹ thuật” của trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh ngày 21/4/ 2005. Đã đăng trên Tạp Chí Đông Y “ của Hội Đông Y Việt nam, các số 341/2002 và số 415/2008.



Trong quá trình sử dụng điều trị, tôi thấy bài thuốc có tác dụng chống viêm và điều hoà sự bài tiết nước tiểu rất tốt, nên áp dụng chữa một số bệnh lý về “GAN- THẬN”, nhất là bệnh “Phù do Gan thận hư suy ”, dùng bài thuốc trên gia thêm: Huỳnh kỳ 10g, Trạch tả 10g, Xa tiền tử 10g, Cây chó đẻ răng cưa 10g. Đạt hiệu quả rất tốt. Chỉ sử dụng khoảng 10 thang, cho 10 ngày đã có hiệu quả tốt. Nhất là các bệnh cho trẻ em, người phù do xơ gan, thận suy…

- BÀI THUỐC:

- Lá Đại bị (khô) 20 gam.
- Rau ngổ (khô) 10 gam.
- Hoạt thạch (tán mịn) 0 5 gam.
- Huỳnh kỳ 10 gam.
- Trạch tả 10 gam
- Xa tiền tử (hạt rau mã đề) 10 gam.
- Cây Chó đẻ 10gam.


Cho tất cả vào ấm, đổ 2,5 lít nước, nấu làm nước uống cả ngày như nước trà. Hay Sắc uống. Nước nhất, đổ 3,5 chén nước sắc lại còn 1,5 chén. Nước nhì cũng sắc như nước nhất. Sắc nước nào uống nước ấy. Trẻ em tuỳ tuổi mà gia giảm, thường thì dùng 1/3 liều lượng của người lớn và sắc cô lại cho uống nhiều lần. Có thể bào chế làm dạng trà, để pha nước uống hàng ngày.


- TÁNH VỊ CÁC THUỐC NAM TRONG BÀI:

1/ - ĐẠi BI: (Bluméa Balsamiféra). Dùng thân lá. Có chứa tinh dầu Bocnéol, Campho, Xinéola… dùng chiết xuất ra băng phiến. Có tác dụng làm hạ huyết áp, giãn mạch ngoại vi, tăng nhu động hô hấp. Công dụng tán phong hàn, sát trùng, tiêu đàm, chữa cảm ho, đầy bụng, ăn không tiêu.


2/.- RAU NGỔ: (Enhydra Fluctuans Lour.).
Chứa tinh dầu, protic, glucide, caroten. Có công dụng tiêu viêm, sát trùng, kích thích tiêu hoá, cầm máu.
 

3/ - HOẠT THẠCH: (Talcum).
Tán bột mịn. Chứa hoạt chất Magié. Có tác dụng lợi tiểu, chữa sỏi, tiểu ra máu, viêm niệu do sỏi bàng quang, làm lành vết loét, ghẻ lở.
 

4/ - HUỲNH KỲ: Astragalus membranaceus Bunge.
Hiện trên thị trường có loại Hoàng kỳ được di thực trồng ở Việt Nam gọi là Hoàng kỳ Hà Nội, cũng rất tốt, giá rẽ. Huỳnh kỳ có tác dụng trên hệ miễn dịch, kích thích phát triển cơ thể, tăng co bóp cơ tim, giản mạch, hạ huyết áp, lợi tiểu, bảo vệ gan, chống viêm, kháng khuẩn, kích thích sinh dục. Hoàng kỳ có vị ngọt, tính ôn. Có tác dụng bổ khí, thăng dương, liễm hãn, lợi tiểu, giải độc. Hoàng kỳ dùng sống chữa Đái tháo đường, đái đục, đái buốt, phù thũng, viêm thận mãn, albumin niệu, lở loét, phong thấp, đau xương, giản mạch hạ huyết áp, viêm loét dạ dày-tá tràng. Hoàng kỳ tẩm mật chữa suy nhược cơ thể, ra nhiều mồ hôi. Liều dùng 6g- 20g/ngày.


5/- TRẠCH TẢ: Alisma plantage aquatica L.
Còn có tên là Mã đề nước. Có nhiều loại làm trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tánh hàn, có tác dụng lợi tiểu, thẩm thấp, thanh nhiệt. Dùng chữa bệnh thủy thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó, đái ra máu, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, đái tháo đường, cao huyết áp, gan nhiễm mỡ. Liều dùng từ 5 – 20g
 

6/- CÂY CHÓ ĐẺ RĂNG CƯA (Phyllanthus urinaria L).
Còn có tên là Diệp hạ châu. Cây chó đẻ có tác dụng kháng khuẩn tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn coli. Shigella dysenteriae, S.flexneri, S.Shigae, Moraxella và diệt nấm đối với Aspergillus fumigatus, trị tiêu chảy, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ dường máu. Trên báo Y học “the Lancet” tháng 10.1988, có đăng Blumberg và Thiogarajan công bố đã điều trị 37 bệnh nhân viêm gan siêu vi B bằng cây Chó đẻ răng cưa, đạt kết quả âm tính 22/37 người sau 30 ngày và chứng minh cây chó đẻ răng cưa có chứa chất làm ức chế lên men phlymerase DNA của siêu vi B.
Theo Đông y, cây Chó Đẻ có vị hơi đắng, tánh mát, dùng để tiêu độc, sát trùng, tiêu viêm, tan ứ, thông huyết mạch, lợi tiểu.
Công dụng: Chữa viêm họng, mụn nhọt, viêm da, lở ngứa, sản hậu ứ huyết, đau bụng, trẻ em bị tưa lưỡi, viêm gan, vàng da, sốt, rắn cắn, viêm đường tiểu, sỏi thận, sỏi mật, lậu, đái tháo đường, sốt rét, đau dạ dày.
Liều dùng: 10 – 20g/ngày.
 

7/- XA TIỀN TỬ: Platago major.
Hạt mã đề có vị ngọt, nhớt, tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi phế, tiêu thũng, lợi tiểu, nhuận trường, hạ đường máu, hạ cholestérol máu, cầm máu, sỏi tiết niệu. Dùng trị đái tháo đường, khó tiêu, ho, vô sinh, cầm máu. Liều dùng: 6 – 12g/ ngày.


II/ BỆNH ÁN ĐIỂN HÌNH:
 

1/ Ong Hoàng Thanh Huy, 70 tuổi, Việt kiều ở Mỹ. Bị thận suy nên phù hai chân đã 2 năm. Ở nước ngoài chữa nhiều loại thuốc, nhưng chưa khỏi. Rất hoang mang về bệnh tình phù hai chân này.
Có người bạn cũng ở Mỹ, gốc người ở phường Đức Thắng, được tôi chữa khỏi bệnh phù hai chân và bụng do xơ gan, nên giới thiệu Ong Huy về đến tôi chữa bệnh.
Tôi cho uống thang trên, mỗi ngày 1 thang, từ ngày 23/2/2008 liên tục được 25 thang, chứng phù 2 chân không còn nữa. Bốc tiếp 25 thang để Ong mang sang Mỹ uống.
 

2/ Lê Văn Tuấn, 22 tuổi, ở thôn An Hội, Xã An Sơn, Huyện Thuỵ Nguyên, Hải Phòng. Tuấn bị phù 2 chân đã mấy năm do thận hư. Gia đình có chạy chữa nhiều nơi, nhưng chỉ đở được vài tuần rồi lại bị phù trở lại.
Tháng 3/2009, cháu Tuấn có vào làm cho khu du lịch Biển Xanh, Thành phố Phan Thiết, được mấy ngày thì em bị phù hai chân như củ, đi lại khó khăn. Ba em từ Hải Phòng vào, đưa cháu đến nhờ tôi chữa trị.
Tôi bốc 5 thang như trên, cho em về sắc uống trong 5 ngày. Hết 5 thang, hai chân em không còn phù nữa, đi làm bình thường. Tôi bốc thêm cho em Tuấn 5 thang nữa. Đến nay đả hơn 6 tháng, bệnh không bị tái phát.
 

KẾT LUẬN:
 

Bài thuốc Nam chữa viêm-sỏi đường tiết niệu là bài thuốc hay, qua nghiên cứu và điều trị trên 20 năm, Chúng tôi thấy hiệu quả trên lâm sàng rất tốt. Khi chúng tôi gia thêm 4 vị: “Huỳnh kỳ, Trạch tả, Xa tiền tử, Chó đẻ” để chữa các bệnh lý về Gan Thận, nhất là bệnh lý “Phù” thì hiệu quả rất khả quan. Nếu có điều kiện, Chúng tôi sẽ đưa bài thuốc vào nghiên cứu sâu hơn, sẽ giúp được cho bệnh nhân khỏi hư thận, nhất là trẻ em, chứng này hiện y học còn bị hạn chế./.