1 thg 2, 2017

Khỏi huyết áp cao đầy bất ngờ nhờ lá xương sông và ngải cứu

Có ai khỏi hãy comment!

Bà Đinh Thị Minh (76 tuổi, thôn Bằng Sở, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội) bị chứng huyết áp cao hành hạ trong nhiều năm liền. Mỗi khi huyết áp tăng cao, bà thường thấy chóng mặt, đau đầu dữ dội và khó thở.
Đặc biệt, bà thường xuyên thấy nhịp tim mình tăng cao, nặng ở ngực, chân tay thì bị tê liên tục. Có những lúc huyết áp cao tăng đột ngột khiến bà xây xẩm mặt mày, các mạch máu như muốn nổ tung ra. Nhiều lần con cháu lo sợ… bà về với tiên tổ.
Bà Minh tâm sự: “Năm 1970, tôi thấy cơ thể mệt mỏi mất sức, không làm được gì. Tôi đi khám thì được chẩn đoán huyết áp cao. Lúc đó huyết áp của tôi đã gần 200mmHg, nhiều lúc còn vượt ngưỡng đó cơ. Khi ấy nhà nghèo, cơm còn không có mà ăn, lấy đâu ra tiền đi chữa bệnh.
Trong vườn nhà chỉ có rau ngải cứu với lá xương sông, nhiều bữa cả nhà còn phải ăn thay cơm. Sau một thời gian ăn lá ngải cứu trừ bữa và đặc biệt là uống nước xương sông đun lên, tôi thấy người khỏe ra nhiều, không thấy mệt mỏi, hay khó thở nữa”.
Sau một thời gian, huyết áp của bà Minh đã trở về ổn định. Nhưng vài năm trở lại đây, chứng huyết áp cao của bà lại tái phát. Bà Minh cho hay: “Tôi cứ cố nhớ lại ngày xưa mình cũng bị huyết áp cao rồi và mình có ăn và uống mấy thứ lá gì đó rồi không bị huyết áp cao nữa.
Nghĩ mãi không ra, tôi đành lên Bệnh viện Đa khoa Ngọc Hồi khám và mua thuốc, mất tổng cộng 3 triệu đồng tiền thuốc mà bệnh không thuyên giảm. Huyết áp cao hành hạ khiến tôi không làm ăn được gì, nhiều lúc cao trên 200 mmHg.
Một ngày tôi ra vườn tưới cây thì chợt thấy có cây ngải cứu và lá xương sông. Khi đó tôi nhớ ra ngày trước mình đã được cứu sống nhờ những loại cây này. Tôi gọi đây là vị thuốc thiêng liêng”.
1476938825_la-xuong-song-ngai-cuu-chua-huyet-ap-cao-2Uống nước lá xương sông hàng ngày, bệnh huyết áp cao của bà Minh đã hết hẳn (Ảnh BSHN)
Lá xương sông đã trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu, cho sức khỏe của bà Minh. Trong vườn nhà bà có một góc lớn để trồng xương sông và ngải cứu. Mỗi lần đi chợ, hay đi nhà thờ mà gặp người quen, bà lại hỏi thăm nhà họ có lá xương sông không, rồi xin về dự trữ trong tủ lạnh.
Hàng ngày bà cứ rửa sạch lá xương sông, cho vào nồi nước đun sôi, rồi chắt nước uống. Cách làm của bà giống như luộc rau thông thường.
Bà Minh vui vẻ cho biết: “Tôi mách cho nhiều người trong làng bị huyết áp cao uống. Nhưng họ còn cho cả trứng rồi cá thịt vào nấu lên như canh để ăn, nghe thì bổ béo thật nhưng không có tác dụng gì đâu.
Muốn chữa huyết áp cao bằng xương sông, chỉ cần rửa sạch và đun lên với nước lọc thôi, sôi một lúc thì bắc ra, để ngội và cứ thế chắt lấy nước uống thôi, đừng cho mắm muối gì cả”.
Trong vườn không thể thiếu xương sông, ngải cứu và gừng tươi
Theo bà Minh, trong vườn nhà bà luôn có một luống lớn trồng xương sông và ngải cứu, tủ lạnh luôn dự trữ sẵn gừng tươi. Bởi ba vị thuốc trên rất quan trọng với sức khỏe của bà.
Bà cho hay: “Tôi không chỉ bị huyết áp cao, mà thi thoảng huyết áp cũng xuống thấp.Lúc ấy tôi lại làm nắm ngải cứu đun lên uống, huyết áp lại tăng lên. Bây giờ tôi sắc chung, cả xương sông và ngải cứu vào với nhau, uống thay nước lọc. Vậy là huyết áp ổn định, luôn dưới 150mmHg.
Còn gừng, tôi dùng cho những lúc hệ tiêu hóa có vấn đề, lạnh trong người, hay mỗi khi cảm nhẹ… Nói chung tôi luôn dự trữ ba vị thuốc Nam nói trên, nên lâu nay tôi không phải uống thuốc gì nữa”.
Bà Minh tâm niệm: “Người Việt dẫm lên cây thuốc Nam mà… sống”. Mỗi khi có ai tới hỏi thăm bà cách chữa huyết áp cao, bà lại nhiệt tình chia sẻ về bài thuốc lá xương sông vừa rẻ vừa dễ kiếm.
Con cháu biếu bà nhân sâm hay thuốc bổ đắt tiền, bà cũng bỏ một góc và chỉ chung thành với ba vị thuốc Nam trên. Thậm chí bà còn lo nhà hết gừng tươi, nên lại cẩn thận thái ra, phơi khô để dự trữ mỗi khi cần đến.
Hiện bà Đinh Thị Minh đã ở độ tuổi xưa nay hiếm, nhưng sức khỏe vẫn rất tốt và minh mẫn. Hàng ngày bà vẫn giúp con cháu chăm sóc vườn tược, nấu cơm, tính toán chính xác tiền bán hàng tạp hóa của gia đình. Năm 2015, bà còn được nhận danh hiệu “Tuổi cao Gương sáng” của huyện Thường Tín, Hà Nội.
Cụ Nguyễn Thị Bấc (83 tuổi, hàng xóm của bà Minh) chia sẻ: “Tôi cũng mắc huyết áp cao mấy năm gần đây. Tôi uống rất nhiều thuốc ở viện, rồi con cháu đi làm cứ nghe ai mách ở đâu có thuốc hữu hiệu là đi mua về cho tôi, không quản vấn đề đắt hay rẻ, nhưng mãi cũng chưa khỏi bệnh.
May được bà Minh chỉ cho cách uống lá xương sông để hạ huyết áp, tôi kiên chì làm theo lời bà ấy. Sau một thời gian ngắn, huyết áp của tôi đã duy chì mức ổn định vì nhà có máy đo huyết áp nên con cháu thường xuyên đo cho tôi”.
1475990048_chua-cao-huyet-ap-bang-thuoc-nam-4Nồi lá xương sông mà bà Minh vẫn uống hàng ngày để duy trì huyết áp ổn định
Bà Đặng Thị Minh vui vẻ tâm sự: “Tôi già rồi, người cũng đầy bệnh tật. Chúa thương cho tôi tìm được những vị thuốc lá lẻo dễ kiếm mà lại hiệu quả. Cách đây 2 năm, tôi bị tụt huyết áp, ngã ở sân giếng gãy cả tay. Tôi được hàng xóm mách đi bó gan cóc và gạo nếp của ông lang bên huyện Thanh Oai, may cũng khỏi nhanh. Từ đó, tôi luôn duy trì uống lá xương sông cùng ngải cứu hàng ngày, vậy là huyết áp luôn ổn định, cơ thể khỏe mạnh”.
Xương sông (tên khoa học là Blumea lanceolaria Druce) từ lâu đã được biết đến là một loại rau, vị thuốc trong mỗi gia đình Việt. Lá cây hình thuôn dài, mép có răng cưa.
Theo Dược học cổ truyền, xương sông có vị đắng cay, tính ấm, có công dụng trừ tanh hôi, khu phong trừ thấp, tiêu thũng chỉ thống, thông kinh hoạt lạc, tiêu đàm thấp, kích thích tiêu hóa, thường dùng để chữa cảm sốt, trúng phong hàn, ho suyễn, mẩn ngứa, nôn mửa…
Một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia hay Trung Quốc, cũng sử dụng xương sông như một loại thuốc chữa các bệnh rất hữu hiệu như: sao khô lá xương sông và chườm lên nơi đau nhức do thấp khớp, uống xương sông khi sản hậu đau khớp xương, đau đầu phong và đòn ngã, trị viêm phế quản, lở loét, viêm miệng và dùng làm thuốc ra mồ hôi…

5 thg 1, 2017

Đọc Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm

 


Hoàng Kim
(Sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn)

Sấm ký là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2009). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (lời Chu Xán - sứ giả của triều Thanh).

Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Đây là bản trích ở bộ “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) của Trịnh Văn Thanh - Sài Gòn – 1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.

Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh”. (Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã mà chúng tôi sẽ lần lượt đăng trong các bài nghiên cứu tiếp theo).

Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua Phật Trần Nhân Tông (1258-1308) là người rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong “Cư trần lạc đạo”: “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Thái Ất thần kinh”, “Sấm ký”, "Bạch Vân Am thi văn tập", "huyền thoại và di tích lịch sử" đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một tài sản văn hoá vô giá.


CẢM ĐỀ

Nguyễn Bỉnh Khiêm


1- Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KÝ

15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành

21- Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.

25- Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.

29- Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.

37- Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

43- Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

47- Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.

51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.

61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.

69- Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.

77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.

85- Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

89- Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì

93- Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.

103- Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

117- Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?

121- So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma

125- Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.

129- Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.

133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài

141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu

145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường

149- Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.

155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?

159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình

165- Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An

169- Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.

173- Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

177- Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca

181- Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình

189- Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời

197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.

201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời

205- Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211- Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn

215- Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân

219- Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình

223- Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

233- Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?

239- Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào

243- Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh

247- Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công

251- Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân

255- Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.

259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa. 

3 thg 1, 2017

Kinh nghiệm chữa quai bị rất hiệu quả của người Tày

Một kinh nghiệm rất hay của người Tày chữa quai bị:

Xương quai hàm lợn: Hơ nóng rồi chườm lên chỗ viêm.