Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam./ RFA
Chủ nhân của rất nhiều sổ tiết kiệm những năm 1975 - 1980 |
Những ngày gần đây, câu chuyện người dân cầm sổ tiết kiệm đến ngân
hàng nhận tiền thì bị trả lời là cuốn sổ không còn giá trị hoặc số tiền
nhận được không đủ mua một ổ bánh mì trong khi trước khi nhận hai mươi
năm, họ đã bán cả lượng vàng để gởi tiết kiệm, rồi những tấm phiếu công
trái khi mua với số lượng hàng chục lượng vàng, khi thanh toán thì không
đủ một bữa nhậu đang là câu chuyện nhức nhối của xã hội, đặc biệt là
những người từng tâm huyết đóng góp xây dựng đất nước.
Cái bẫy đổi tiền và trượt giá
Ông Bàng, chủ của tấm phiếu công trái trị giá bốn lượng vàng lúc mua, hiện sống tại Bình Thạnh, Sài Gòn, chia sẻ: "Công
trái hồi đó nó bán giờ sau này mất hết, tại vì nó bán thời đó cả chỉ
vàng mà sau này mua không được tô phở. Giá nó lên vùn vụt chứ không như
bây giờ. Tiền in ra chừng vài năm sau như giấy lộn à. Tại vì sau 1975
thì nó đổi tiền thành 'tiền giải phóng'. Một đồng 'tiền giải phóng' ăn
tới 500 đồng Bắc Việt lận. Trong khid đó đồng tiền của Bắc Việt chỉ là
một tấm tín phiếu, không có giá trị tiền tệ thế giới. mà đồng Việt Nam
Cộng Hòa thì đã được định giá trên đồng đô la, mang tính quốc tế rồi.
Sau đó thêm mấy lần đổi tiền nữa... Giai đoạn sau này đồng tiền in ra
chừng một năm đến hai năm đã hoàn toàn mất giá trị".
Theo ông, sự trượt giá của đồng tiền trong ba mươi năm nay cũng như
lần đổi tiền bất ngờ năm 1985, sáng sớm, lúc 5 giờ sáng, đài phát thanh
mới thông báo quyết định đổi tiền và ngay ngày hôm đó, việc đổi tiền
được tiến hành ở các trụ sở ủy ban cấp xã, phường trên khắp Việt Nam.
Chuyện này giống như một cái bẫy mà ngân hàng nhà nước đã giăng sẵn để
bất kì người dân nào có tâm huyết xây dựng đất nước hoặc gởi tiết kiệm ở
ngân hàng đều bị sập một cách thê thảm.
Nếu như năm 1975, việc đổi tiền ở miền Nam Việt Nam nhằm thống nhất
tiền tệ từ tiền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam thành tiền Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa ở hai miền thì năm 1978, việc đổi tiền nhằm thay đổi quốc hiệu
ghi trên đồng tiền từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sang Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Hai lần đổi này nghe ra có vẻ hợp lý và không cần
bàn nhiều.
Nhưng lần đổi tiền năm 1985, đây là lần đổi tiền hết sức bất ngờ và
kì cục, chuyển mệnh giá đồng tiền cũ giảm xuống còn 10% giá trị đồng
tiền mới. Tờ 50 đồng lúc bấy giờ mang ra tiêu dùng ở bất kì nơi đâu cũng
khó vì người bán hàng không đủ khả năng thối tiền thừa. Nhưng đó cũng
là sự khởi đầu của lạm phát tàn bạo nhất trong lịch sử. Chỉ chưa đầy
mười năm sau, tờ tiền mệnh giá 500 đồng ra đời nhưng cũng không trụ được
bao lâu, tờ 1000 đồng ra đời, rồi 2000 đồng, 5000 đồng, 10,000 đồng,
50,000 đồng và liền sau đó là 100,000 đồng, hiện tại, tờ 500,000 đồng ra
đời tuy chưa đầy 10 năm nhưng giá trị của nó rất thấp, mua không được
một phần tư chỉ vàng.
Trong khi đó, lúc chuẩn bị đổi tiền, năm 1984, một lượng vàng có giá
dao động từ 2000 đồng đến 2700 đồng, tính theo tiền mới sau năm 1985 thì
nó trị giá 200 đồng đến 270 đồng. Và một người muốn sỡ hữu tờ 50 đồng
trên tay, phải bán ra ba chỉ vàng. Nếu gởi tiết kiệm ba trăm đồng, phải
bán đi hơn một lượng vàng và gởi 1000 đồng vào tiết kiệm phải mất đi gần
bốn lượng vàng. Tiền mua công trái cũng vậy. Và đây là giai đoạn mà
người ta gởi tiền kiệm bằng vàng và nhận cả lãi lẫn gốc sau này bằng cám
heo.
Một cuốn sổ tiết kiệm có mệnh giá 1000 đồng lúc đó trị giá gần bốn
lượng vàng, sau hơn hai mươi năm, tính cả lãi lẫn gốc, nếu như cuốn sổ
vẫn còn giá trị thanh toán thì chủ của nó nhận chưa đầy một 200,000
đồng. Sau hơn hai mươi năm gởi tiết kiệm để làm giàu bằng bốn lượng
vàng, người ta nhận được số tiền mua chưa được một phân vàng. Tính theo
tỉ giá thì nó trị giá chưa được 0,25% lúc gởi vào!
Tiền công trái, tiền tiết kiệm và tiền cổ phần hợp tác xã đi về đâu?
Một người tên Hiền, ở Bình Chánh, Sài Gòn, chia sẻ: "Đến năm 1985
thì nó tạm mở cửa, cởi trói gì đó vì nghe rằng Mỹ nó mở cấm vận. Nên bắt
đầu tạm ổn nhưng mà tiền vẫn mất giá như thường, nhất là hồi Liên Xô
sụp đổ đó, tiền nó lên vùn vụt, vùn vụt à. Một lần nữa sôi động về tiền,
một cái nhà thời đó giá là 10 cây thì sau đó nó lên 150 cây. Trước năm
75 không dễ làm giàu như bây giờ, công chức trước 1975 không dễ tham
nhũng như bây giờ vì luật lệ nó rất đàng hoàng. Hồi đó anh tỉnh trưởng
không dễ kiếm tiền như bí thư tỉnh ủy, như chủ tịch tỉnh như bây giờ
đâu. Không dễ buôn lậu từ Trung Quốc về bằng tàu lửa như bây giờ đâu,
bây giờ làm giàu (bất chính) dễ chứ không như hồi đó đâu, kể cả cán bộ."
Theo ông Hiền, nếu như tính kĩ số vàng mà người dân đã mất đi trước
và sau đổi tiền năm 1985 và đồng tiền bị trượt giá từ năm 1985 đến nay
thì nhiều không thể tưởng tượng được. Vì những năm 1975 đến 1980, ngoài
chuyện có nhiều gia đình bị tịch biên tài sản, mất hàng ngàn lượng vàng,
còn có thêm tin đồn sau "giải phóng", vàng sẽ được dùng làm đai cuốc và
cán mác. Và có bao nhiêu vàng người ta cũng mang ra đổi đồ, bán lấy
tiền nhét vào ống tre, cột nhà để dự trữ. Đùng một cái, đổi tiền, số
tiền dự trữ chỉ còn bằng 10% và sau ba lần đổi tiền, đồng tiền trượt
giá, số vàng bán đi để dự trữ bằng tiền mặt xem như thành mây thành
khói, vàng mất mà tiền cũng không còn giá trị.
Trong khi đó, sau khi đổi tiền, một số không ít các gia đình bỏ ra
mua công trái, gởi tiết kiệm, cả hai khoản tiền này xem như đổ sông đổ
biển vì đồng tiền trượt giá quá nhanh. Nhưng câu chuyện không dừng ở đó,
những năm 1990, các vùng thôn quê lại có thêm chuyện đặt cọc tiền trước
khi sử dụng điện nhà nước. Thường thì mỗi hộ phải nộp vào hợp tác xã 50
ngàn đồng, tương đương với 3 phân vàng, rồi sau đó mới tự mua dây điện,
bóng đèn để kéo điện về nhà. Mãi cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm sau,
số tiền đặt cọc để đóng điện của người dân đã hoàn toàn mất dấu, khộng
biết đòi ai vì hợp tác xã đã giải thể, vấn đề điện thắp sáng giao cho
điện lực trực tiếp quản lý, trong khi đó tiền cọc lại nộp cho hợp tác
xã.
Lại thêm chuyện bất kì xã viên nào cũng bị bắt buộc đóng tiền cổ phần
vào hợp tác xã sản xuất với mức tiền tương đương một chỉ vàng những năm
1980. Nhưng mãi cho đến nay, loại hình hợp tác xã giải thể đã lâu vẫn
không thấy tiền cổ phần hoàn trả cho xã viên. Cùng lắm thì mỗi dịp tết,
các thôn bắc loa gọi dân đi nhận tiền lãi cổ phần của một năm với 15,000
đồng. Mọi năm đều thế, dịp Tết tới đây cũng không ngoại trừ. Và nếu xã
viên có đi rút lại cổ phần cũng chẳng biết tìm ai để rút!
Tính cho đến nay, các khoản tiền công trái, tiết kiệm và cổ phần xã
viên hợp tác xã mà hàng chục triệu dân đã tham gia xem như mất trắng,
không có một lời cám ơn, thậm chí còn bị biến thành trò cười trong câu
chuyện phiếm của các nhân viên ngành ngân hàng hiện tại!