ST
Hệ thống thước đo thời Nguyễn
Ðối với mối quốc gia, mỗi dân tộc, hệ thống thước đo là sự
biểu hiện một cách trực tiếp và cụ thể phương thức tư duy, cách tính
toán và cả đặc trưng văn hóa của họ. Tuy nhiên, đã từ hàng thế kỷ nay,
với ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, hệ thước mét có nguồn gốc
từ châu Âu đã dần dần "thôn tính" hoàn cầu, khiến ít quốc gia, dân tộc
còn giữ được hệ thước đo truyền thống của mình. Việt Nam chúng ta không
phải là một ngoại lệ. Thực tế này biểu hiện rất rõ trong mọi mặt của
cuộc sống, ngay cả trong những ngành nghề được xem là truyền thống mà
chúng ta đang cố gắng giữ gìn như nghề mộc, nề ngõa, chạm khắc, may thêu
(trang phục truyền thống) thì việc sử dụng hệ thước Tây đã trở thành
phổ biến.vv.. Nhưng việc khôi phục lại hệ thống thước đo xưa có lẽ là
rất viễn vông và sẽ không ít người cho là lố bịch nếu chúng ta không
hiểu được ý nghĩa và những giá trị văn hóa sâu sắc hàm chứa bên trong
nó. Trên tinh thần ấy, trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin nêu lên
một số kết quả trong việc tìm hiểu về hệ thống thước đo được sử dụng
trong thời Nguyễn (1802-1945), thời kỳ tồn tại của chế độ quân chủ cuối
cùng tại Việt Nam; cũng là thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử dân tộc từ
Trung Ðại sang Cận Ðại và Hiện Ðại.
Thước đo thời Nguyễn
Liên quan đến các hệ đo lường cũ (gồm cả cân, đong, đo, đếm), từ trước
đến nay đã có một số người quan tâm nghiên cứu nhưng các kết quả đã công
bố thì vẫn còn rất khiêm tốn. Thực ra, hệ đo lường trước đây của người
Việt khá phong phú và có đặc điểm riêng, muốn tìm hiểu nguồn gốc và cách
sử dụng thực không phải đơn giản. Ở bài viết này chúng tôi chỉ xin đề
cập riêng đến hệ thước đo truyền thống được sử dụng trong thời Nguyễn.
I.Ðôi điều về cách hiểu hiện nay về hệ thước đo truyền thống
Có thể nói, cho đến hiện tại việc hiểu và giải thích về hệ thước truyền
thống của chúng ta vẫn còn nhiều điều bất cập, nếu không nói là lộn xộn
và còn không ít nhầm lẫn. Thử điểm qua hệ thống từ điển và những công
trình lớn đã và đang được sử dụng phổ biến hiện nay thì chúng ta sẽ thấy
rõ điều này:
1-Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên:
- Chữ Thước có 4 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ hai được
giảng như sau: "1.Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng khoảng 0,425m (thước mộc),
hoặc bằng 0,645m (thước đo vải). 2 Ðơn vị cũ đo diện tích ruộng đất,
bằng 24m2(thước Bắc Bộ) hoặc bằng 33m2(thước Trung Bộ). Nhà có dăm thước
đất."
+ Chữ Thước mộc thì được định nghĩa: "Ðơn vị cũ đô độ dài, bằng 0,425m"
+ Thước ta d. (kng). Thước mộc, phân biệt với mét (thước tây).
+ Thước thợ d. Thước của thợ mộc dùng để đo góc vuông. (tr.1007)
- Chữ Dặm có 3 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất là: "Ðơn vị cũ đo độ dài bằng 444,44 mét..."(tr.264).
- Chữ Trượng có 2 nghĩa là: "1 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng 10 thước Trung
Quốc cổ(tức là bằng 3,33 mét). 2 Ðơn vị cũ đo độ dài, bằng bốn thước mộc
(tức là bằng 1,70 mét). Thang cao hai trượng". (tr. 1093)
2-Theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh:
-"Xích : Thước đo, là 10 tấc". (tr.576)
-Chữ Tầm có 5 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Tám thước (xích) là một tầm". (tr.245).
-Chữ Trượng có 2 nghĩa, trong đó có một nghĩa: "Mười thước là một trượng". (tr.519).
3- Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu:
-" Xích: Thước, mười tấc là một thước". (tr.156).
4-Theo Từ lâm Hán Việt từ điển của Vĩnh Cao và Nguyễn Phố:
-"Chữ Xích: (danh) Ðơn vị đo chiều dài, thước (Trung Quốc), mười tấc là một thước, (tương đương 0,33m)". (tr.331).
-Chữ Lý có 2 nghĩa, trong đó nghĩa thứ hai là "Ðơn vị đo độ dài. Gồm
có: a.Công lý: Kilomètre (3125 xích). b.Thị lý dài chừng 1562,55 xích.
c. ?Dặm, đơn vị độ dài ngày xưa dùng để xây dựng, dài 1800 xích
(576m)".(tr.1368).
5- Theo Nguyễn Ðình Ðầu trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn
*Tập Biên Hòa (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994):
- Trường xích: 0,4664m
*Tập Thừa Thiên (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997):
- Ðiền xích: (thước đo ruộng) 0,4664m
6-Theo Lê Thành Khôi trong bài Tìm hiểu một số đơn vị đo lường ngày
trước đăng trên Kỷ yếu Hội thảo phục hồi điện Cần Chánh (Trung tâm
BTDTCÐ Huế & Ðại học Waseda xuất bản năm 2000):
"Dưới triều Nguyễn, thước đo được khoảng 0,425cm. Năm 1890, giá trị của nó được ấn định là 0,4m.
Trượng 10 thước 4m
Ngũ 5 thước 2m
Thước 10 tấc 0,40m
Tấc 10 phân 0,04m
Ngoài từ ngũ, tất cả các đơn vị khác đều mang hình thức thập phân. Ngũ
không phải là đơn vị bậc dưới của trượng, nhưng là một đơn vị có thể
thay thế trượng. Khi người ta dùng trượng thì không dùng ngũ và ngược
lại"(tr.93)
..vv...
Như vậy, ngay cả trong hệ thống từ-tự điển và các sách công cụ đang
được sử dụng rất phổ biến hiện nay, hệ thống thước đo truyền thống vẫn
được hiểu không thống nhất, nếu không nói là là vừa thiếu vừa lộn xộn!
Ðiều này thể ở những đặc điểm sau:
-Ðịnh nghĩa không đầy đủ.
-Không phân biệt được hệ thống thước đo theo từng loại hình riêng biệt.
-Cách hiểu về một đối tượng giữa các từ điển không giống nhau.
-Nhầm lẫn hoặc hiểu một cách mập mờ về hệ thống thước đo giữa ta và Trung Quốc.
Thực ra, để hiểu một cách chính xác và đầy đủ về hệ thống thước đo
truyền thống của dân tộc chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về loại
hình, công năng cũng như lịch sử tồn tại của hệ thống thước đo này.
II. Các hệ thước đo của người Việt trong thời Nguyễn.
Hệ thước đo xưa của người Việt, về cơ bản gồm 3 loại chính là hệ thước
đo vải -hay thước may (tên chữ Hán là Phùng xích hay Quan Phùng xích, hệ
thước đo ruộng đất-hay thước ruộng (tên chữ Hán là Ðiền xích hay Ðộ
Ðiền xích và hệ thước mộc-hay thước ta (tên chữ Hán là Quan mộc xích:
hay Mộc xích.
Dưới đây chúng tôi sẽ bước đầu giới thiệu về từng hệ thước, trong đó sẽ đặc biệt chú trọng đến hệ thước mộc
1- Hệ thước đo vải -hay thước may
Chưa rõ hệ thước này có nguồn gốc xuất phát từ đâu, chỉ biết độ dài của
nó luôn khác với hệ thước khác. Một số nghệ nhân nghề dệt truyền thống
thì cho rằng, chiếc thước này được hình thành và bị "ràng buộc" với
khuôn khổ của chiếc khung cửi cổ truyền. Sự hạn chế của phương pháp thủ
công khiến kích thước khổ vải dệt ngày xưa ít thay đổi qua thời gian.
Bởi vậy, dù kích thước của các cây thước mộc, thước ruộng từng thay đổi
rất nhiều qua các triều đại, nhưng đối với cây thước may thì sự điều
chỉnh trên hầu như không đáng kể. Hiện nay, tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung
đình Huế vẫn còn lưu giữ được một cây thước rất đẹp, tương truyền là
thước của Bộ Công triều Nguyễn (xem ảnh). Toàn bộ cây thước này dài đúng
1 mét Tây (100cm); 3 mặt khắc giá trị của 3 loại thước khác nhau, gồm
Kinh xích, Chu Nguyên xích và Phùng xích. Tại mặt khắc giá trị của Phùng
xích, tức thước đo vải- thước may, giá trị của 01 thước đo được là
59,80cm, tức xấp xỉ 0,6m(1).
Tuy nhiên, theo các thợ may lão thành vùng Huế, thì giá trị của cây
thước may cũng có thể dao động trong khoảng từ 0,6m-0,65m. Những cây
thước cổ thường có giá trị lớn hơn, trong khoảng 0,64-0,65m, còn những
cây thước muộn thường có giá trị xấp xỉ 0,6m. Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn Ngữ học, không rõ căn cứ vào đâu nhưng cũng cho rằng, giá trị
cây thước may là 0,645m. Như vậy, bước đầu có thể nhận định rằng, dưới
thời Nguyễn, giá trị thực của cây Phùng xích hay thước may nằm trong
khoảng 0,6m-0,65m.
2- Hệ thước đo ruộng đất-hay thước ruộng
Căn cứ vào sử sách, có thể khẳng định rằng, hệ thước đo ruộng đất được
áp dụng dưới thời Nguyễn là có nguồn gốc từ thời Lê. Tuy nhiên, việc áp
dụng hệ thước đo này cũng có diễn biến rất phức tạp.
Nguyên từ thời chúa Nguyễn, các chúa đã cho đo ruộng đất toàn bộ Ðàng
Trong để lập địa bạ từ năm 1669. Nhưng không rõ giá trị của cây Ðiền
xích lúc ấy là bao nhiêu và có phải nó đúng là cây thước vốn được sử
dụng từ triều Lê hay không? Nhưng đến đầu triều Nguyễn, vào năm Gia Long
thứ 5 [1806], để thống nhất đơn vị đo ruộng đất trong toàn quốc, nhà
vua đã sai chế ra cây thước Trung Bình (Trung Bình xích: Cây thước này
được áp dụng đến năm 1810, sau khi một người dân ở xã Cổ Linh, huyện Gia
Lâm trình lên cây Ðiền xích của nhà Lê và vua Nguyễn cho áp dụng nó làm
cây thước chuẩn để đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc thì mới chấm
dứt vai trò. Sách Ðại Nam thực lục của Quốc Sử Qúan triều Nguyễn có ghi
rõ: "Tháng 8 [Năm Canh Ngọ, Gia Long thứ 9 (1810)], ban thước kinh đo
ruộng cho trong ngoài. Thước kinh do triều Lê cũ chế ra ban hành đã lâu,
dân gian vẫn thường dùng. Năm Gia Long thứ 5 [1806] mới dùng thước
trung bình, chế hơi dài hơn, bởi thế đo ruộng mẫu số sai nhau nhiều. Vua
sai hỏi tìm được thước kinh cũ. Lấy được ở dân xã Cổ-linh huyện
Gia-lâm, bèn theo cách thức ấy lấy đồng (nặng 1 cân12 lạng) mà làm ban
cho các thành dinh trấn. Những ruộng đất công tư từ trước đã dùng thước
trung bình mà khám đạc, thì làm sổ để đó mà theo. Từ nay nếu có việc
tranh địa giới hay tố cáo ẩn lậu và báo xin khai khẩn thì dùng thước
kinh để đo" (2).
Như vậy, từ năm 1810 trở về sau, cây thước đo ruộng của triều Nguyễn
chính là cây Ðiền xích của triều Lê; giá trị của nó được xác định bằng
47cm (lúc này, 01 mẫu ta ruộng đất được tính bằng một diện tích hình
vuông, mỗi cạnh là 150 thước, tức bằng 4.970m2). Việc áp dụng cây thước
này trên toàn quốc kéo dài đến năm 1867 thì giới hạn lại trong khu vực
Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì Nam Kỳ đã bị thực dân Pháp chiếm đóng và áp dụng
theo hệ thước đo của người Pháp, tức hệ thước mét. Ðến năm 1898, cây
thước trên chỉ còn áp dụng tại khu vực Trung Kỳ do tại Bắc Kỳ đã áp dụng
một hệ thước có giá trị nhỏ hơn. Sở dĩ chúng ta biết được điều này vì
trong Sử cũng ghi rõ, vào ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Pháp Paul
Doumer đã ra một nghị định quy định: "Kể từ ngày 1/1/1898, ở Bắc Kỳ, 01
thước ta có độ dài bằng 0,4 mét (tức thụt hơn trước 0,070 mét)"(3) Theo
tác giả cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử thì đây thực chất là một thủ
đoạn nham hiểm của thực dân Pháp nhằm tăng diện tích ruộng đất lên một
cách giả tạo, mục đích là để tăng ngân sách từ việc đánh thuế vào người
nông dân. Bởi từ thời điểm này trở đi, 01 mẫu ta áp dụng ở Bắc Kỳ chỉ
còn bằng 3.600 m2(4).
Còn ở Trung Kỳ, cây thước Ðiền xích vẫn giữ nguyên giá trị độ dài là
47cm đến khi nhà Nguyễn cáo chung, thậm chí đến tận ngày nay một số
người vẫn quen "tư duy" bằng cây thước này.
Có một trường hợp rất thú vị có thể dẫn ra ở đây là tại đình làng Văn
Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để "cố định hóa" cây Ðiền xích
và để không ai có thể thay đổi được, dân làng Văn Xá đã đem khắc nguyên
giá trị của cây Ðiền xích lên cột đình làng. Qua bao nhiêu lần sửa sang
tu bổ, cây thước này vẫn không hề suy suyển, giá trị của nó vẫn là
47cm!
3- Hệ thước mộc- hay thước ta:
Ðây là loại thước khá phức tạp bởi bao gồm nhiều hệ khác nhau, cụ thể gồm 3 hệ chính:
+ Hệ thước đo độ dài.
+ Hệ thước kỹ thuật hay thước nghề
+ Hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên.
- Về thước đo độ dài tức cây thước đo chiều dài của cột, kèo, gian,
chái, đo chiều dài đường đi hay khoảng cách giữa các khu vực. Ðây là cây
thước phổ biến nhất nên được gọi là Thước Kinh. Thước Kinh dưới thời
Nguyễn trong giai đoạn đầu có giá trị trong khoảng 42,4cm-42,5cm. Ðiều
này được chứng minh bằng kết quả khảo sát đo đạc khu vực Hoàng thành
cùng các công trình kiến trúc cung đình của Huế mà chúng tôi đã từng
công bố trên Tạp chí Khảo Cổ Học, số 1/1998 (5). Tuy nhiên, kể từ ngày
1/1/1898, theo Nghị định của Toàn quyền Paul Doumer, cây thước này đã bị
hợp nhất với cây thước đo ruộng và đều gọi chung là Thước ta, với giá
trị là 40cm. Cây thước hiện lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế,
chắc chắn được làm sau thời điểm này nên mặt Kinh Xích (thước Kinh) của
nó có giá trị là 40cm.
- Về hệ thước kỹ thuật hay thước nghề thì có nhiều loại: thước Ðinh,
thước Sàm, thước Vuông, thước Nách...Nhìn chung đây đều là những loại
thước phục vụ cho người thợ mộc trong quá trình thao tác kỹ thuật. Lê
Vĩnh An trong bài Công cụ chế tác nhà rường Huế đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu và Phát triển, số 2/2002 đã có sự giới thiệu khá kỹ về các loại
thước này. Nhìn chung, các loại Thước nghề thường khắc kèm giá trị của
cây thước Kinh để tiện dụng cho người thợ.
- Về hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên thì hết sức
phức tạp bởi có rất nhiều loại với quan niệm và cách sử dụng khác nhau.
Lỗ Ban là tên một người thợ mộc lừng danh của Trung Hoa cổ đại, tương
truyền là người phát minh ra cưa, đục và các dụng cụ của nghề mộc. Ông
được tôn làm Tổ của ngành mộc Trung Quốc. Thước Lỗ Ban tương truyền là
do ông sáng chế, nó còn có các tên gọi khác như Môn xích, Bát tự xích.
Ðây là loại thước người thợ mộc thời xưa dùng để đo kích thước nhà cửa,
phòng ốc, đình viện, giường phòng và các loại khí cụ.
Theo sách Trung
Quốc cổ đại kiến trúc từ điển của Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh, hiện
nay tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh vẫn còn 1 cây Môn Xích, được xem là
cây thước chân truyền của đời xưa. Thước dài 46cm, rộng 5,5cm, dày
1,36cm. 2 mặt lớn của thước đều chia làm 8 trực. Một mặt, giữa các trực
khắc các chữ "Tài Ðại Tinh, Bệnh Thổ Tinh, Li Thổ Tinh, Nghĩa Thủy Tinh,
Quan Kim Tinh, Chấp Hỏa Tinh, Hại Hỏa Tinh, Cát Kim Tinh", 2 bên lại
khắc các câu về điều tốt xấu (cát, hung).
Mặt kia, giữa 8 trực khắc các chữ: "Quý Nhân Tinh, Thiên Hội Tinh, Tể
Tướng Tinh, v.v... Mỗi trực lớn, ở hai bên lại chia khắc 5 trực nhỏ,
phân ra khắc các chữ "Quý Nhân", "Phát Tài", hoặc Tà Yêu, Hội
Hại.v.v...( 6)
Nhìn chung trong thời cổ, ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng văn hoá
Hán, thước Lỗ Ban được sử dụng rất phổ biến và có nhiều biến dạng.
Hiện nay có 2 loại thước Lỗ Ban chính, lưu truyền không chỉ ở nước ta
mà còn ở cả Trung Quốc, Ðài Loan, Hồng Kông là: thước trực 8 (Bát môn
xích) và thước trực 10 (Thập môn xích) với giá trị rất khác nhau. Chúng
ta có thể dễ dàng tìm thấy cả 2 loại thước này cùng in trên cây thước
sắt cuốn do Ðài Loan sản xuất (thường in kèm trong thước sắt 7,5m), bán
khá phổ biến tại trên thị trường.
Theo 2 loại thước này thì:
1- Loại thước trực 8 (8 tấc) dài tổng cộng 42,8cm, 8 trực là:
TÀI-BỆNH-LI-NGHĨA-QUAN-CHẤP-HẠI-BẢN;
mỗi trực lại chia thành 4 phần chia
làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:
TÀI: Tài Ðức, Bửu Khố - Lục Hợp, Nghênh Phúc
BỆNH: Thoái Tài, Công Sự - Tể Chấp, Cô Quả
NGHĨA: Thiêm Ðinh, Ích Lợi - Quý Tử, Ðại Cát
QUAN: Thuận Lợi, Hoành Tài - Tấn Ích, Phú Quý
CHẤP: Tử Biệt, Thoái Khẩu - Li Hương, Tài Thất
HẠI: Linh Chí, Tử Tuyệt - Bệnh Lâm, Khẩu Thiệt
BẢN: Tài Chí, Ðăng Khoa - Tấn Bửu, Hưng Vượng
Toàn bộ thước gồm 32 từ kép với 64 chữ.
2 - Loại thước trực 10 dài tổng cộng 38,8cm;
10 trực là:
ÐINH-HẠI-VƯỢNG-KHỔ-NGHĨA-QUAN-TỬ-HƯNG-THẤT-TÀI. Mỗi trực lại chia thành 4 phần chia làm 2 khoảng, mỗi phần khắc 2 chữ:
ÐINH: Phúc Tinh, Cập Ðệ - Tài Vượng, Ðăng Khoa
HẠI: Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm -Tử Tuyệt, Linh Chí
VƯỢNG: Thiên Ðức, Hỉ Sự - Tấn Bửu, Nạp Phúc
KHỔ: Thất Thoát, Quan Quỷ - Chấp Tài, Vô Tự
NGHĨA: Ðại Cát, Tài Vương - Ích Lợi, Thiên Khố
QUAN: Phú Quý, Tấn Bửu - Hoành Tài, Thuận Khoa
TỬ: Li Hương, Tử Biệt - Thối Ðinh, Thất Tài
HƯNG: Ðăng Khoa, Quý Tử - Thiêm Ðinh, Hưng Vượng
THẤT: Cô Quả , Tể Chấp - Công Sự, Thối Tài
TÀI: Nghênh Phúc, Lục Hợp - Tấn Bửu, Tài Ðức
Toàn bộ thước gồm 40 từ ghép với 80 chữ.
Tuy nhiên trên thực tế tại nước ta, thước Lỗ Ban có nhiều biến thể rất
phong phú. Cùng là loại Bát môn xích nhưng có cây thước giá trị là
43,9cm, có cây dài đến 56cm (thước Chu Nguyên xích tại Bảo tàng Mỹ thuật
Cung đình Huế), cũng có cây chỉ dài 28,4cm... nên thật khó có kết luận
chung về loại thûúác này! (xem bảng thống kê các cây thước tiêu biểu của
chúng tôi in kèm ở phần Phụ lục).
Trên đây chỉ là một số ý kiến mang tính chất đặt vấn đề của chúng tôi
về hệ thước đo truyền thống của dân tộc. Chúng tôi rất mong vấn đề này
sẽ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và thảo luận kỹ càng hơn.
Chú thích:
(1). Cây thước tại Bảo tàng MTCÐ Huế mặt khắc 3 cây thước khác nhau là:
1-Chu nguyên xích: 55,8cm, gồm 8 cung, mỗi cung 7cm
2-Kinh xích: 40,5cm, trực 10, mỗi cung=4,05cm
3-Phùng xích: 59,7cm, trực 10, mỗi cung =5,97cm
Trên Chu nguyên xích có khắc 2 dòng chữ Hán,
Dòng bên trái:
Bảo vật hà hội thủ
Phân minh định bất sai
Nhất thân li bệnh tật
Dâm loạn nam nữ ương
Phu thê xung khắc viễn
Nam nữ thất gia hương
Tài lộc toàn gia quý
Trập thằng tích hí phương
Bửu tấn tăng điền trạch`
Thông minh trí huệ anh
Quan sự lâm li tán
Ðạo tặc viễn tức hoành
Phá gia tài thoái tán
Phong vũ bất an ninh
Ngũ âm tài đỉnh xuất
Công hầu phú quý vinh
Bên hữu có hàng dọc:
Tham lang tiến hoành tài
Xứng ý tự nhiên lai
Cự môn hiếu phục thương
Du hí tẩu tha phương
Lộc tồn nhân đa lang
Li biệt hựu bất tường
Văn khúc chuí văn chương
Ðại đại cận quân vương
Vũ khúc quan lộc tinh
Phú quý thộ khang ninh
Liêm trinh tửu sắc sinh
Lộ vong nhân tương tranh
Phá quân chủ năng hoạch
Thập ác bột nghịch hành
Phụ bật suất tướng tinh
Kim ngân đường mẫu dinh.
Theo chúng tôi, kích cở 100cm của cây thước tại Bảo tàng cho thấy nó đã
ảnh hưởng Tây và có lẽ làm muộn, trong khoảng cuối thế kỷ XIX-đầu thế
kỷ XX. Còn mặt Kinh xích tức loại thước phổ thông hay thước mộc. Nguyên
cây thước này có kích thước 40cm (theo quy định áp dụng từ đầu năm 1898
của Toàn quyền Ðông Dương Paul Doumer), khoảng 0,5cm hẳn là do thợ thủ
công làm dôi ra. Ðồng thời, theo giới thợ mộc, kích thước của cây THƯỚC
ÐINH này là rất đúng quy chuẩn theo "khẩu truyền" của giới làm mộc, tức
mặt thước phải rộng 1 tấc(4cm), lưng rộng nửa tấc(2cm). Nhưng điều này
cũng cho thấy thước được làm muộn, sau quy định của Toàn quyền Ðông
Dương năm 1898, nên mới được hiểu 1thước=40cm.
(2). Quốc Sử Qúan triều Nguyễn, Ðại Nam thực lục. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Sử học, Tập IV, Hà Nội, 1963, tr83.
(3), (4). Dương Kinh Quốc,Việt Nam những sự kiện lịch sử. Nxb Giáo dục.
Hà Nội-1999, tr236.
Theo tác giả, vào ngày 2/6/1897, Toàn quyền Ðông
Dương Paul Doumer đã ra sắc lệnh quy định, kể từ ngày 1/1/1898, ở địa
bàn Bắc Kỳ áp dụng cách tính 1 thước ta =0,40m (tức 40cm). Quy định này
đã lấp bằng luôn khoảng cách giữa cây thước ta chính hiệu (tức thước
mộc = 0,424m) và cây thước đo ruộng (cây Ðiền xích = 047m) để chỉ còn một
loại thước ta=0,40m. Chính vì vậy, một sào Bắc Bộ trước kia cũng như sào
Trung Bộ, đều bằng 4970m2(tính khoanh vuông, mỗi bề là 150 thước) nhưng
từ 1/1/1898 chỉ còn bằng 3600m2, trong khi Trung Bộ vẫn giữ nguyên cách
tính cũ.
(5). Trong bài viết ấy chúng tôi đã công bố một phần kết quả phối hợp khảo sát toàn bộ các di tích kiến trúc cung đình Huế giữa đại học Waseda
(Nhật Bản) và Trung tâm BTDTCÐ Huế từ năm 1994-1997, trong đó có cây
thước mộc của triều Nguyễn.
(6). Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh (Chủ biên), Trung Quốc cổ đại kiến
trúc từ điển, Bản tiếng Hoa. Bắc Kinh. 1992. phần Công cụ chế tác, tr
92.
TÀI LIÊU THAM KHẢO:
Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918). Nxb Giáo dục. Hà Nội. 2001
Ðào Duy Anh, Hán Việt từ điển. Nxb Ðà Nẵng. 1993.
Hoàng Phê (Chủ Biên), Từ điển tiếng Việt. Nxb KHXH. Hà Nội, 1988.
Lê Vĩnh An, Công cụ chế tác nhà rường Huế. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2/2002.
Lê Thành Khôi,Tìm hiểu một số đơn vị đo lường ngày trước. Kỷ yếu Hội
thảo phục hồi điện Cần Chánh. Trung tâm BTDTCÐ Huế & Ðại học Waseda
xuất bản. Huế-Tokyo. 2000.
Nguyễn Ðình Ðầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn. Tập Th ừa Thiên. Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Tập Biên Hòa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
1994.
Phan Thanh Hải, Những phát hiện mới về Hoàng thành và Tử Cấm thành Huế, Tạp chí Khảo Cổ học, số 1/1998.
Quốc Sử Qúan triều Nguyễn, Ðại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học. Nxb Sử học, Tập IV, Hà Nội. 1963
Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh (Chủ biên), Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển, Bản tiếng Hoa. Bắc Kinh. 1992
Thiều Chửu, Hán Việt tự điển. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 1990
Vĩnh Cao - Nguyễn Phố, Từ lâm Hán Việt từ điển. Nxb Thuận Hóa, Huế. 2001
Ths.Phan Thanh Hải