ST
Mạn bàn về chữ “Phúc”
Tác giả: Nguyễn Hiếu
Trong quan niệm cổ truyền của gia đình người Việt,
chữ “Phúc” có vị trí quan trọng hàng đầu. "Nhà có phúc" là ước vọng, là
niềm vinh dự của người Việt Nam. Vì lẽ đó, cứ Tết đến xuân về, người ta
thường viết chữ “phúc” trên một tờ giấy đỏ vuông dán ngoài cửa và xem
như là một lá bùa chúc tụng điều may mắn trong năm.
Uớc vọng đầu năm của hầu hết người dân Việt không thể
thiếu chữ "Phúc". Cụ Nguyễn Công Trứ có đôi câu đối vừa hóm hỉnh nhưng
không kém phần tinh tế và sâu sắc của hương vị ngày xuân: Chiều ba mươi,
nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng "Bần" ra cửa/ Sáng mồng một, rượu say
túy lúy, giơ tay bồng ông "Phúc" vào nhà. Lại nữa, có một câu chuyện
trong dân gian kể rằng: đời vua Gia Long, có người lập nhiều công trạng,
nhà vua hỏi muốn được thưởng gì thì người ấy thưa rằng: "Hạ thần chỉ
xin được một chữ "Phúc" mà thôi".
Vua cười đáp rằng: "Tiền bạc, chức tước thì ta có thể ban, chứ Phúc
thì chỉ có trời ban mà thôi, cả dòng họ ta chỉ nhờ có chữ Phúc mà vinh
hiển nhiều đời". Thật vậy, dòng họ nhà Nguyễn đã lót chữ Phúc vào tên
của mình (vua Gia Long là Nguyễn Phúc Ánh). Trên khắp nước Việt Nam,
nhiều địa danh đã chọn chữ "Phúc": tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phúc Thọ (Hà
Nội)...
Chữ "Phúc" là từ Hán Việt, người miền Nam đọc là "phước". Chữ "Phúc"
trong giáp cốt văn là hình tượng hai bàn tay bưng hũ rượu đứng trước bàn
thờ. Như vậy, chữ "Phúc" vốn được xem là điều tốt lành do cầu cúng mà
có được.
Theo đó, "Phúc" có nghĩa là "thuận lợi", "đồng thuận". Thuận có nghĩa
là từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài đều thông suốt, không có gì trở
ngại. Trên thuận trời đất, dưới thuận vua tôi, dưới nữa thuận cha mẹ,
con cái. Đời sống tinh thần bên trong và đời sống vật chất bên ngoài đều
thuận lợi không có gì trắc trở, như vậy gọi là thuận, là Phúc. Một điều
thật thú vị là câu chúc Tết của người phương Tây thường đề cập đến hạnh
Phúc, sức khỏe và thành đạt, đứng ở góc độ nào đó có sự tương đồng như
Phúc, Lộc, Thọ mà ở phương Đông người ta tâm niệm.
Cả Âu lẫn Á đều đặt "Phúc" lên vị trí hàng đầu, nhưng nếu tìm hiểu kỹ
thêm một chút mới thấy chữ "Phúc" của phương Đông rất rộng lớn, mênh
mông và tinh tế. Người Trung Hoa chơi chữ bằng cách vẽ hai con dơi đâu
cánh lại, ngụ ý là trùng phúc, họ còn vẽ thêm một lúc năm con dơi biểu
tượng cho ngũ phúc (ngũ phúc lâm môn) mà sách Hồng Phạm viết: "Ngũ phúc,
nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang minh, tứ viết Du hảo đức,
ngũ viết Khảo chung mệnh" (Năm phúc: sống thọ, giàu có, bình an, đức
tốt, chết vào tuổi già).
Theo Từ điển Khai Trí Tiến Đức thì "Phúc" là điều hay, điều tốt, do
việc làm nhân đức mà ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong tâm thức
của người Việt, từ lâu đã quan niệm phúc bao giờ cũng đi đôi với đức.
Thuật ngữ "Phúc đức" luôn gắn liền nhau. Chính điều này đã làm sâu sắc
thêm triết lý nhân duyên của nhà Phật và đem lại màu sắc tích cực cho
hai chữ họa phúc (Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai). Phúc dày hay mỏng
cũng do chính con người can dự quyết định.
Chữ Phúc chính là một ân huệ mà con người tự tạo ra qua những hành
động tốt của mình. Nó là những hạt giống tốt được tay người tự gieo trên
những mảnh đất mà ta thường gọi là phúc điền (ruộng phước). Do quan
niệm họa phúc ở đời là sợi dây gieo nhân gặt quả, nên người Việt Nam chú
trọng đến việc "làm ơn, làm phước".
Hơn thế nữa, mỗi hành động, việc làm của chúng ta không những ảnh
hưởng đến bản thân ta mà còn lưu lại kết quả cho thế hệ sau. Nhà có phúc
là nhà có được cuộc sống bình yên thanh thản, đặc biệt là có hậu vận
tốt. Muốn được đức phải có phúc và ngược lại đức sẽ đem lại phúc, đó là
quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa,
tôn giáo,... Ví như đức của Nho giáo là ngũ thường, đức của Phật giáo
là ngũ giới (năm điều cấm), đức của Kitô giáo là 10 điều răn của Chúa...
Dù văn chương chữ nghĩa có khác nhau, nhưng chung quy về đức ở mỗi dân
tộc, mỗi thời đại đều có chung quan niệm nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi
người.
Ngày nay, khi kinh tế có chiều khởi sắc, dường như người ta ít đặt,
hay lãng quên chữ "Phúc" trong mối quan hệ với "đức" hay "thiện" (phúc
đức, phúc thiện) mà thường đặt "Phúc" trong mối quan hệ với chữ "đạt"
(thành đạt) hay "lợi" (phúc đạt, phúc lợi).
Ngạn ngữ Lào có câu: "Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo
đức". Hi vọng rằng dù lịch sử có thay đổi như thế nào đi nữa thì quan
niệm về chữ "Phúc" của dân tộc, của mỗi gia đình, của mỗi người chúng ta
sẽ mãi mãi là "mã di truyền" tốt đẹp trong đời sống văn hóa người Việt.
Chữ Phúc
Lưu Nhơn Nghĩa
Được bạn hiền Phạm quốc Bảo
tặng cuốn sách " Dấu vết Văn hóa Mỹ ",
tập 2 , trang 84-86, bài " Chữ Phúc treo ngược ".
Xin kể lại sơ lược câu chuyện trong quán
Tàu . Ba người đàn ông Việt, tuổi trên 50 (tính
từ 1995 ) ngồi ăn bàn chuyện chữ nghiã.
" Này, nhìn thử ba chữ treo hàng dọc trên tường
kia...Đúng đấy ,thấy gì không ?
Ba chữ Tàu treo một hàng dọc như thế,
loại dốt như tôi cũng đoán được
là Phúc Lộc Thọ chứ gì? Phải không anh Tân? Sao
lại cười, tôi đoán sai à?
Cậu đoán đúng, tôi cười vì anh Việt đã
nhìn ra chữ " Phúc lộn " ngược.
Lộn ngược ?...Để tôi xem có còn nhớ
chữ Tàu nữa không nha anh Tân. Chữ Phúc viết theo
Hán văn là từ trái sang phải và từ trên xuống
dưới thì gồm bộ " Kỳ "chỉ về
thần thánh, trên cùng là chữ nhứt là một, giữa
chữ khẩu là miệng, dưới là chữ
điền là ruộng. Phúc đạy là Hạnh Phúc,
chứ không phải chữ Phúc trong nghiã bạn tâm phúc.
-Phúc đó là bụng, gồm có bộ " nhục " (
thịt ) và chữ " phục " là trở về. Bộ "
nhục " thì khỏi nói, phải nhớ. Còn chữ "
phục " thì trên là chữ " nhân "( người ), giữa
chữ " nhựt " ( mặt trời ) và dưới là
chữ " chỉ " (đi đứng ). Để dễ
nhớ, người ta thường diễn tả
chữ " phục " là con người ở thôn quê khi
mặt trời lên thì ra đồng làm việc khi mặt
trời lặn thì đi về nhà. Đúng không anh Tân ?
Anh dân kinh tế mà chữ Hán tài đấy.
-Thế chữ Phúc tiệm nầy chiết tự ra sao
để dễ nhớ, anh biết chứ ?
Ngoài bộ " kỳ " ý nói do thiêng liêng hoặc nhờ may
mắn mà có. Chữ Phúc tính từ dưới lên trên có
nghiã la ruộng mênh mông. Ruộng ( điền ) nhìn xa
chỉ thấy 4 cạnh thôi, ( khẩu ), xa nữa
chỉ thấy một cạnh ( nhất ) và xa nữa thì
không còn bờ giới hạn.
Hay thật, chữ Phúc đây họ treo ngược
thế kia, anh thấy sao ?
Có thể họ " vô tình đóng đinh vào tường
rồi nó tự lộn ngược lúc nào không biết
để sửa lại. Nhưng đặc biệt
giới buôn bán người Trung Hoa cũng có khi cố ý
treo ngược chữ Phúc là để tiền bạc
vào trong tay họ mà không trở ra được nữa,
họ tin tưởng như vậy "
Cái ý ấy lạ và tuyệt thât.....
Hai anh giỏi chữ nghiã, luận nghe sướng tai
quá.! Riêng tôi dốt và đơn giản thì cho rằng
Phúc là Phúc Đức hay Phúc là cái bụng khác nhau ở
chữ với nghiã gì đó là chuyện khác, còn hai chữ
Phúc liên quan chặt chẻ với nhau cho con người
trước hết cái đã. Phúc đức hay tiền
bạc, lý tưởng hay âm mưu gì đó không cần
biết, đầu tiên phải cho nó no cái bụng
trước tiên, còn mọi sự mọi việc tính sau.
Đó là câu chuyện của ba ông khách quán mì. Để
học cho dễ nhớ thì đúng hơn, ông giảng
chữ " phúc " ( bụng ) cũng trôi, nhưng ông
giảng chữ " phục " gồm chữ nhục (
thịt ) thì đúng, còn chữ bên phải không có nghiã,
chỉ mượn âm ( hài thanh, một phần của
chữ " phục ", trở lại, chữ " phục ",
trở lại gồm bộ " sách ", bên phải trên là
chữ " nhơn ", người, chữ " nhựt ",
mặt trời, cuối cùng là chữ " truy ", đến
sau, chứ không phải nghĩa là " đi đứng '
như ông khách nói. Điều nầy không quan trọng,
xưa, học trò chữ Nho phải tìm cách chiết
tự để dễ nhớ, vì chữ Nho không thể
đáng vần. Chữ Đức chiết tự thành "
chèo bẻo vắt vẻo cành tre, Thập trên, tứ
dưới, nhứt đè chữ tâm. Chữ Hiếu
chiết tự thành " Đất nầy là đất
hồ ao ( chữ thổ ), Ai cắm cây sào mà lại
cấm xiên, Con ai mà đứng không yên, Đứng thì
không vững dựa nghiêng cây sào.
Ông khách giảng chữ " phúc " cũng trôi, nhưng
người Tàu chiết tự, giảng khác. Chữ "
phúc " gồm bộ " kỳ "( thiêng liêng ), kế bên là
chữ " nhứt" ( một ), bên trên chữ "khẩu" (
miệng ), chót là chữ " điền " ( ruộng
). Người được thần thánh phù trì, lại
chỉ có một miệng ăn ( ít nhân khẩu ), có
ruộng, vậy là có phúc, hay phước. Hai chữ phúc
( bụng ) và " phúc " ( phúc đức ) giảng ra
đều hợp lý.
May quá, gỏ tới đây, thằng con tôi dẫn về
cô bạn gái gốc Đài Loan, biết chữ Hoa. Cô
diễn đạt theo tinh thần Hoa ngữ về
chữ " phúc " như sau.
Chữ " phúc ", bên là bộ " kỳ ", cúng bái, cầu xin.
Cầu xin cho gia đình có ruộng . Chữ " nhứt
khẩu tử " nghiã là gia đình," nhứt khẩu " là
gia đình, chứ không phải là một miệng ăn.
Cầu xin cho gia đình có ruộng, no đủ. Lại
một lối giải thích khác.
Còn chữ " phúc " treo ngược, ông khách cho rằng
chủ tiệm đóng đinh vào tường rồi nó
tự lộn ngược quên không sửa lại. Ông còn
giảng là người Tàu buôn bán có khi cố ý treo
ngược chữ " phúc " để tiền bạc không
trở ra được nữa...Đây là phần ông
chế ra thêm thắt. Xong rồi ba ông khen nhau hay
tuyệt, độc giả Việt Nam đọc sao
hiểu vậy .
Dân Quảng Châu cố ý treo ngược chữ " phúc ",
theo thổ ngữ Quảng Châu, âm " đảo " (
đảo ngược ) gần âm " đáo " ( đến
), họ treo ngược chữ " phúc " , đọc thành
" phúc đảo "," phúc đảo " gần âm
" phúc đáo " nghiã là " phúc tới ", cầu cho phúc tới
.Người sử dụng thổ ngữ Quảng Châu,
thủ đô tỉnh Quảng Đông, tiếng nói thông
dụng Chợ Lớn, mới dùng chữ Phúc đảo
ngược thôi.
Luôn tiện nói tào lao cuối năm. Dân Quảng Châu
rất sợ số 4, âm " tứ " trong thổ ngữ
Quảng Châu gần với âm " tử " ( chết ),
nhiều tiệm bán điểm tâm, không có bàn thứ 14,
âm thập tử, bàn 13 tới bàn 15. Họ ưa số
8, gần âm " phát ", phát đạt, họ hay mua bảng
số xe 18, 88..
.Dân gốc Triều Châu, một Phủ trong tỉnh
Quảng Đông chọn số 4 là số hên," tứ ",
số 4 trong thổ âm Triều Châu gần với âm
chữ " thế ", đời . 44 đọc theo thổ
âm Quảng Châu là " tử tử ", chết chết, trong
thổ âm Triều Châu, " tứ tứ " đọc thành
đời đời . Chàng rể mang tiền " xởi
miềng chí ", tiền rửa mặt hay tiền rửa
đít ( xin lổi, người ta dịch như vậy
) cho ông già vợ ngày đám cưới tùy, miễn
là số 4, như $44 hay $444, $4444....Ông già vợ biết
điều, lấy $4 tượng trưng, trả
lại phần kia.
Dân Trung Hoa thích số 9, cửu , đồng âm chữ
cửu, mãi mãi. Dân Nhựt sợ số 9, roku, khổ
lực, dân Âu Mỹ sợ số 13 .
Luôn tiện nói cho hết. Bài thơ " Rắn đầu
biếng học " của Lê quí Đôn, trong Quốc văn
Giáo khoa thư, âm ra chữ Quốc ngữ có câu, " Từ
nay Châu Lỗ xin siêng học. Kẻo hổ mang danh
tiếng thế gia". Đúng ra là Trâu Lỗ. Nước
Trâu thuộc Sơn Đông là quê Mạnh Tử,
nước Lỗ quê Đức Khổng Tử.
Người Bắc soạn, âm " tr " thành " ch", " Trâu " thành
" " Châu ", cũng có người họ Trâu, khác với
họ Châu.
Cũng như trường hợp " tiếng bom Sa
Điện " của Phạm Hồng Thái, ngày nay, tìm
đến nơi mới biết địa danh là Sa
Diện, lổi ấn loát, in sai rồi để nguyên,
đời sau cứ tiếp tục đọc, lấy
đó làm tài liệu viết tiếp.
Cuối năm nói chuyện trà dư tữu hậu. Ông
Phạm quốc Bảo ơi, làm ơn tra tự
điển hay hỏi người chủ tiệm về
chữ " Phúc " treo ngược.