Các sách thuốc đời sau, kể cả danh tác Bản Thảo Cương Mục của Lý
Thời Trân ở Trung Quốc, cũng như Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh Thiền
sư và Lĩnh Nam Bản Thảo của Hải Thượng Lãn Ông đều phân Giun đất vào bộ
côn trùng. Quyển Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam của GS, TS. Đỗ Tất
Lợi cũng không ngoài lệ ấy. Nếu phân loại thuốc theo tác dụng dược lý
cổ truyền mà hầu hết sách Đông dược mới biên soạn hay áp dụng, theo một
số đầu sách ít ỏi chúng tôi có được thì giun đất được xếp vào rất nhiều
nhóm thuốc khác nhau. Sách Lâm sàng thường dụng, Trung dược thủ sách
(Học viện Trung y Hồ Nam biên soạn, NXB Vệ sinh Nhân dân, Bắc Kinh,
1972) xếp vào nhóm “khu phong thấp”. Sách Dược học cổ truyền của GS.Trần
Văn Kỳ (T.2, NXB Tp.HCM,1997) cũng xếp theo nhóm này. Sách Tân biên
Trung y học khái yếu (do 9 Học viện Trung y Trung Quốc phối hợp biên
soạn, nxb VSND, Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm thuốc “trấn tiềm an thần”.
Sách Giản minh Trung y học (Đại học Tân Y Hà Bắc biên soạn, nxb VSND,
Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm “bình can tức phong”. Tương tự là sách
Thuốc cổ truyền và ứng dụng Lâm sàng của GS. Hoàng Bảo Châu (NXB Yhọc,
Hà Nội, 1999) xếp vào nhóm “trấn kinh an thần” loại “tức phong chỉ
kinh”. Trong khi đó sách Dược Tính Đại Từ Điển (Hồ An Bang biên soạn,
Trường Hưng thư cục, xuất bản ở Hương Cảng, không ghi năm in) lại xếp
giun đất vào nhóm “tả hạ thuỷ ẩm “ (lợi tiểu). Chúng tôi buộc phải dẫn
nhiều sách của TQ vì các tài liệu chính thống ở nước ta như bộ giáo
trình Bài Giảng YHCT in đi in lại nhiều lần vẫn bỏ quên vị thuốc này.
Nhưng mục đích quan trọng của trưng dẫn xếp loại không thống nhất là
muốn nói lên một sự thật về tính công dụng đa năng của vị thuốc Giun
đất.
Nhìn chung, theo tài liệu cổ, Giun đất có vị mặn, tính
hàn, nhập các kinh Tỳ, Vị, Can, Thận, có tác dụng thanh nhiệt, trấn
kinh, lợi tiểu, giải độc, định suyễn; dùng chữa bệnh nhiệt phát cuồng,
kinh phong co giật, ho suyễn, bán thân bất toại, miệng mắt méo lệch,
tiểu tiện khó khăn, phong thấp đau nhức,...
Theo kết quả nghiên cứu dược
lý hiện đại của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc, tác dụng thanh
nhiệt (hạ sốt) của Giun đất là do thành phần lumbrifebrin; tác dụng phá
huyết (làm giảm độ dính của máu và độ ngưng tập của hồng cầu) là do
chất lumbritin; tác dụng lợi tiểu, chữa đau nhức khớp xương là do có
nhân purin. Các thực nghiệm còn chứng minh các thành phần đạm có trong
giun đất có tác dụng kháng histamin (giải độc), làm giản khí quản (hiện
nay ở TQ đã chế thành ống tiêm dịch giun đất gọi là địa long chú xạ dịch
để điều trị hen suyễn trên lâm sàng), hạ huyết áp và ức chế sự co bóp
của ruột non. Thành phần Giun đất còn có một độc tố là
terrestro-lumbrolysin có thể gây co giật. Có lẽ nhờ thành phần này mà
Giun đất được dùng điều trị các chứng cấp mạn kinh phong theo nguyên tắc
“lấy độc trị độc”, nhưng phải theo liều lượng và phối hợp thuốc nghiêm
mật. Liều dùng thông thường của Giun đất ghi nhận qua các tài liệu là
6-12g dưới dạng thuốc sắc, 2-4g dưới dạng thuốc bột (khô). Việc bào chế
cũng là một khâu rất quan trọng trong dùng thuốc Đông y, tuỳ từng trường
hợp mà có cách bào chế riêng, xin giới thiệu một vài ứng dụng lâm sàng
của Giun đất:
Dùng làm thuốc thông kinh hoạt lạc, giảm đau: Sử dụng
cho thể thấp nhiệt ứ trệ kinh lạc, khớp xương sưng nóng đỏ đau, tiểu
tiện ít mà vàng. Có thể phối hợp với các vị thuốc nhiệt như Ô đầu, Phụ
tử để điều trị đau khớp xương thể hàn thấp. Bài thuốc điển hình là Hoạt
lạc đơn: Xuyên ô đầu, Thảo ô đầu, Địa long, Thiên nam tinh mỗi thứ 8g,
Nhủ hương, Một dược mỗi thứ 6g, tất cả tán bột, lấy rượu khuấy hồ làm
hoàn. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Kinh giới để trị thấp đàm ứ huyết trở
trệ kinh lạc gây đau.
Một bài thuốc khác có công dụng bổ khí hoạt huyết, hành
ứ tán trệ, dùng trị di chứng trúng phong (tai biến mạch máu não): liệt
nửa người, miệng mắt méo lệch, nói khó, miệng chảy nước dãi, tiểu không
tự chủ... cho kết quả tốt là bài Bổ dương hoàn ngũ thang của tác giả
Vương Thanh Nhiệm: Hoàng kỳ 40g, Đương quy vĩ, Xuyên khung, Địa long mỗi
thứ 8g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 6g, Xích thược 12g; sắc uống ngày một
thang.
Dùng trị sốt cao, co giật: Có thể chọn một trong các bài sau:
- Địa long tán: Địa long 12g, Toàn yết 4g, Câu đằng 16g, Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 12g; sắc uống.
- Địa long 12g, Châu sa (Thuỷ phi) 4g; tán bột làm viên, mỗi lần uống 4g.
-Trùn đất sống 160g, Đường đỏ 40g, giã nhuyễn, bọc vải đắp lên bụng dưới.
Dùng làm thuốc lợi tiểu, trị đái khó: Đi tiểu không thông
do thấp nhiệt, hoặc bí tiểu do sỏi tiết niệu, dùng Trùn tươi, đầu củ
Tỏi, lá Khoai đỏ giã nhuyễn đắp lên vùng rốn, hoặc phối hợp thuốc lợi
thuỷ để uống.
Dùng làm thuốc thanh phế bình suyễn: Đối với ho suyễn do hoả nhiệt thượng viêm, như hen phế quản khó thở, trẻ em ho gà, có thể dùng:
- Địa long 12g sắc uống.
- Hoặc Địa long tán bột mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần.
- Hoặc Địa long và Sinh cam thảo bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 2 lần.
Ngoài ra, xin giới thiệu một bài thuốc mới được báo cáo
có khả năng trị ung thư và hạ huyết áp, trích từ sách Lâm Sàng Thường
Dụng Trung Dược Thủ Sách như sau: Địa long, Ngô công, Phong phòng (tổ
ong), Bồ công anh, Bản lam căn, Toàn yết, Xà thoát (xác rắn lột), mỗi
thứ 40g, Bạch hoa xà thiệt thảo 320g, tất cả tán bột, luyện mật làm
hoàn; mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần.
Những bài thuốc trên đây chủ yếu để giới thiệu ứng dụng lâm sàng
của vị thuốc Giun đất hay Địa long, thầy thuốc có thể tham khảo vận dụng
phép gia giảm, điều chế (nhất là đối với các vị thuốc có độc như Phụ
tử, Ô đầu, Châu sa...) thích hợp với từng người bệnh cụ thể mới đem lại
kết quả trong điều trị. Người bệnh không được tự ý sử dụng, bởi không
nắm được các chống chỉ định của thuốc. Thuốc là con dao hai lưỡi cần
được điều khiển bởi bàn tay lành nghề mới phát huy hết tác dụng và tránh
được tác hại của nó.
L/Y Phan Công Tuấn