6 thg 9, 2014

Lý thuyết dây: một lý thuyết vể mọi thứ trong vũ trụ

 ST
Chúng ta đang sống trong một vũ trụ phức tạp hết sức tuyệt vời, và chúng ta tò mò muốn biết bản chất của nó. Chúng ta không ngừng tự hỏi –tại sao chúng ta lại  có mặt ở đây? Chúng ta và thế giới của chúng ta từ đâu mà đến ? Thế giới của chúng ta do gì tạo nên? Chúng ta được may mắn sống vào thời điểm mà con người đã đạt được những tiến bộ to lớn trong công cuộc tìm kiếm giải đáp cho các câu hỏi trên. Lý thuyết dây (string theory) là nỗ lực mới nhất của con người  để giải đáp câu hỏi cuối cùng (và một phần câu hỏi thứ hai)

Mô hình chuẩn
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/8a/String_theory.svg/220px-String_theory.svg.pngWikipedia
Trình tự nghiên cứu cấu tạo vật chất của vũ trụ:

1. Các vật thể vĩ mô (chính xác hơn, các vật thể thông thường hàng ngày quan sát được bằng mắt thường)

2. Cấu trúc
phân tử

3. Cấu trúc
nguyên tử với hạt nhân (proton nơtron) với  electron (điện tử)

5. Các
quark

6. Các
dây
 
Vậy thì, thế giới của chúng ta do gì tạo nên? Vật chất thông thường được tạo nên bởi những nguyên tử, và các nguyên tử này lại được tạo nên bởi ba thành phần cơ bản: những electron xoay quanh một nhân gồm có những proton neutron. Electron thực sư là một hạt cơ bản/ fundamental particle ( nó là một hạt trong gia đình những hạt gọi là lepton), nhưng các neutron và proton lại  được tạo thành bởi những hạt nhỏ hơn gọi là quarks. Quarks –như chúng ta được biết cho tới nay-- là những hạt thực sư sơ đẳng (elementary)
Sư hiểu biết hiện nay của chúng ta về thành phần hạ nguyên tử ( subatomic composition) của vũ trụ (universe) được tóm lược trong Mô hình chuẩn cũa vật lý hạt ( Standard Model of particle physics). Mô hình này mô tả cả những khối xây dựng cơ bản (fundamental building blocks) của vũ trụ và cả các lực tượng tác giữa các khối này .
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6c/Standard_Model_of_Elementary_Particles-vi.svg/300px-Standard_Model_of_Elementary_Particles-vi.svg.pngWikipedia
 Tổng cộng có tất cả 12 khối xây dựng cơ bản: sáu khối là những quark được gọi  là up, down, charm, strange, bottomtop ( một proton chẳng hạn được tạo thành bởi hai “up quark” và một “down quark”). Sáu khối còn lại là những lepton—bao gồm electron , hai hạt anh em với electron nhưng nặng hơn gọi là muontau, cùng với ba neutrino
Có bốn lực cơ bản trong vũ trụ: lực hấp dẫn(gravity), lực  điện-từ (electromagnetism) và các lực hạt nhân (nuclear forces) yếu và mạnh. Mỗi môt lực này được sản xuất ra bởi những hạt cơ bản hành động như chất  chuyên chở lực. Quen thuộc nhất trong những hạt này là photon, một hạt ánh sáng, đóng vai trò trung gian gữa các lực điện từ (điều này có nghĩa là một nam châm hút một cái đinh vì hai vật thễ này trao đổi những photon với nhau). Graviton là hạt liên quan với lực hấp dẩn (gravity). Lực mạnh đuợc tải bởi tám hạt gọi là gluon. Sau hết , lực yếu được truyền đi nhờ ba hạt W+, W- và Z
Động tác (behavior) cũa tất cả các hạt và lực trên đây được mô tả với một độ chính xác tuyệt hảo bởi Mô hình Chuẩn, với một ngoại lệ đáng đễ ý: lực hấp dẫn (gravity). Vì những lý do kỹ thuật, lực hấp dẫn (gravitational force)--lực rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày cũa chúng ta- được chứng tỏ là rất khó có thễ được mô tả ở cấp vi mô. Trong nhiều năm  một trong những vấn đề quan trọng nhất trong ngành vật lý lý thuyết là đưa ra một thuyết lượng tử vể lực hấp dn ( quantum theory of gravity)
Lý thuyết dây
Trong vài thập niên gần đây, lý thuyết dây (string theory) đã xuất hiện như là ứng viên nhiều hứa hẹn nhất cho một lý thuyết vi mô cho lực hấp dẫn (microscopic theory of gravity). Và lý thuyết này có một tham vọng cao xa hơn nhiều: đó là nổ lực cung cấp một mô tả đầy đủ, thống nhất và nhất trí vể cấu trúc cơ bản cũa vũ trụ cũa chúng ta ( completed ,unified and consistent description of the fundamental structure of our universe) . Vì lý do này lý thuyết dây đôi khi đươc gọi là lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything)
Ý tưởng chủ yếu đằng sau lý thuyết dây là: tất cả các hạt “cơ bản” khác nhau của Mô hình Chuẩn  thực ra chỉ là những biểu lộ khác nhau của một vật thể cơ bản: đó là dây (string). Thế là sao?  Như bạn biết chúng ta thông thường hình dung electron như một điểm không có cấu trúc bên trong. Một điểm không thể làm gì khác hơn là di chuyển. Nhưng, nếu lý thuyết dây mà đúng,  thì khi được quan sát bởi một kính hiển vi cực mạnh , electron thực sư sẽ không phải là một điểm mà là một vòng dây nhỏ bé. Một dây(string)có thể làm điều khác hơn là di chuyển: nó có thể dao động theo nhiều cách khác nhau. Nếu nó dao động theo một cách nào đó, thì khi ở xa chúng ta sẽ không thể bảo nó thực sự là một dây mà chúng ta nhìn thấy nó là một electron. Nhưng nếu sợi dây rung theo môt cách khác, chúng ta sẽ nhìn nó như là một photon, một quark ..v.v và v.v… Như vậy nếu lý thuyết dây mà đúng thì toàn bộ vũ trụ được tạo thành bởi những dây
Có lẽ điều đáng chú ý nhất cũa lý thuyết dây là một ý tưởng đơn giản như vậy lại có thể suy diễn ra Mô hình Chuẩn (điều này đã được kiểm chứng bẳng thực nghiệm với một độ chính xác không tưởng). Nhưng cũng cẩn phải nói là cho tới nay chưa có bẳng chứng thưc nghiệm trực tiếp nào chứng tỏ là lý thuyểt dây là một mô tả đúng đắn cũa Thiên nhiên. Điểu này chủ yếu là vì lý thuyết  dây còn đang trong giai đoan phát triển. Chúng ta mới chỉ biết từng “mẩu” của lý thuyết này nhưng chưa nhìn thấy toàn bộ hình ảnh của nó và vì vậy chúng ta không thể có những dự đóan rõ ràng. Trong những năm gần đây, nhiều phát triễn phấn khởi đã xẩy ra, cải thiện tận gốc sự hiểu biết cũa chúng ta về lý thuyết này
             Đọc thêm     http://whystringtheory.com/motivation/the-basics/


Năm yếu tố cơ bản cũa lý thuyết dây
Lý thuyết dây dựa vào năm ý niệm cơ bản sau đây:
1-   Dây và màng (strings and membranes)
Khi lý thuyết dây  mới được đưa ra vào những năm 1970, các sợi năng lượng trong lý thuyết này  được coi như là những vật thể một chiều: những dây (strings). [ Một chiều chỉ ra rằng dây chỉ có chiều dài, trái ngược với hình vuông có cả chiều dài và chiều cao]
Các dây này ở dưới hai dạng: dây khép kín và dây hở. . Dây hở có hai đầu không đụng nhau, còn dây khép  kín là một vòng không có đầu hở. Cuối cùng những dây ban đầu ( gọi là dây Loại I) được phát hiện là có thể trải qua 5 loại tượng tác cơ bản theo như hình dưới đây ,  tùy thuộc vào những cách chắp nối hay tách rời khác nhau
Type I strings can go through five fundamental interactions, based on different ways of joining and
Các tượng tác dựa vào khả năng của một dây chắp nối hay tách xa các đầu của nó. Bởi vì các đầu của những dây hở có thể chắp nối lại tạo thành những dây khép kín, nên bạn không thể tạo dựng một lý thuyết dây không có những dây khép kín.
Điều này đã tỏ ra quan trọng, bởi vì các dây khép kín có những tính chất làm cho các nhà vật lý học tin rằng chúng có thễ mô tả lực hấp dẫn (gravity). Thay vì là một lý thuyết vế những hạt vật chất, các nhà vật  lý đã bắt đầu nhận định ra rằng lý thuyết dâycó đủ  khả năng giải thích lực hấp dẫn ( gravity) và động tác (behavior) của các hạt
Sau nhiều năm, người ta đã phát hiện là lý thuyết dây đòi hỏi những vật thể khác hơn là các dây. Các vật thể này có thễ được xem như là những tấm lá hay brane. Các dây có thễ bám dính một đầu hay cả hai đầu vào các brane này. Hình dưới đây là một brane hai chiều ( gọi là 2-brane).
In string theory, strings attach themselves to branes.
2-   Lực hấp dẩn lượng tử (Quantum gravity)
Vật lý cận đại có hai định luật cơ bản: vật lý lượng tử (quantum physics)và thuyết tương đối tổng quát (general relativity) . Hai định luật khoa học này tiêu biểu cho những lãnh vực nghiên cứu hoàn toàn khác nhau. Vật lý lượng tử nghiên cứu những vật thể cực nhỏ nhất trong thiên nhiên, trong khi thuyết tượng đối có xu hướng nghiên cứu thiên nhiên ở qui mô các hành tinh, thiên hà và vũ trụ như một toàn bộ (Dĩ nhiên lực hấp dẫn ảnh hưởng tới các hạt nhỏ bé và thuyết tượng đối cũng kể tới lực này). Những lý thuyết nhắm hợp nhất hai lý thuyết trên là những lý thuyết lực hấp dẫn lượng tử ( theories of quantum gravity), mà lý thuyết có nhiểu hứa hẹn nhất chính là lý thuyết dây
.
3-   Hợp nhất các lực (Unification of forces)
Cùng một lúc với vấn để lực hấp dẫn lượng tử, lý thuyết dây còm nhắm hợp nhất bốn lực trong vụ trụ--lực từ trường, lực hạt nhân mạnh, lực hạt nhân yếu và lực hấp dẫn—vào trong một lý thuyết thống nhất. Trong vũ trụ của chúng ta, các lực cơ bản này  hiện ra như là bốn hiện tượng khác nhau, nhưng các chuyên gia về lý thuyết dây tin rẳng trong vũ trụ sơ khai (khi mà năng lượng ở những mức cao vô cùng) các lực này đều được mô tả như là những dây tương tác với nhau
4-   Siêu đối xứng (Supersymmetry).
Tất cả các hạt trong vũ trụ có thễ chia làm hai loại: boson và fermion.  Lý thuyết dây tiên liệu là có một loại liên kết gọi là siêu đối xứng (supersymmetry)  giữa hai loại hạt này. Theo siêu đối xứng phải có một fermion  tồn tại cho mỗi một boson và ngược lại. Nhưng đáng tiếc là các thí nghiệm chưa phát hiện ra những hạt phụ thêm này (extra particles)
Siêu đối xứng là một  mối liên hệ toán học đặc trưng giữa một số nhất định số hạng trong các phương trình vật lý. Siêu đối xứng đã được phát hiện bên ngoài  lý thuyết dây, mặc dầu khi đuơc đưa vào trong lý thuyết dây nó đã biến đổi lý thuyết này thành lý thuyết dây siêu đối xứng (hay lý thuyết siêu dây/ superstring theory ) vào khoảng giữa nhửng năm 1970
Siêu đối xứng đã đơn giản hoá rất nhiều các phượng trình cũa lý thuyết dây bằng cách loại bỏ một số nhất định số hạng (terms) . Không có siêu đối xứng, các phượng trình sẽ dẫn đến những mâu thuẫn vật lý , chẳng hạn như những giá trị vô hạn và những mức năng lượng ảo .
Vì các nhà vật lý chưa quan sát thấy những hạt tiên liệu bởi siêu đối xứng , nên điều này vẫn còn là một giả thiết toán học. Nhiều nhà vật lý học tin rằng lý do chưa ai quan sát được các hạt này là vì  phải cần nhiều năng lượng để tạo ra chúng (theo công thức nổi tiếng cũa Einstein E=mc2 năng lượng liên hệ với khối lượng) Có th nh ững hạt  này đã có hiện diện trong vũ trụ sơ khai (early universe), nhưng vì vũ trụ nguội dần và năng lượng đươc trải rộng sau big bang nên các hạt  này đã tụt xuống mức năng lượng thấp hơn như được quan sát thấy ngày nay.( Tuy vậy bạn đừng nên nghĩ  rẳng vũ trụ cũa chúng ta ngày nay ở mức năng lượng đặc biệt thấp vì ỡ đây thấp chỉ có nghĩa là  thấp so với sức nóng mãnh liệt vào những khoảng khắc ngay sau big bang)
Các nhà khoa học hi vọng là những quan sát thiên văn hay các thí nghiệm với máy gia tốc hạt  sẽ giúp khám phá ra những hạt  siêu đối xứng năng lượng cao, đem lại sự hỗ trơ cho các tiên liệu cũa lý  thuyết dây
5-   Các chiều phụ thêm (extra dimensions)
Một kết quả toán học khác cũa lý thuyết dây là lý thuyết này chỉ  có ý nghĩa trong một thế giới có nhiều hơn ba chiều không gian. ( Vũ trụ cũa chúng ta có ba chiều không gian-- phải/trái, lên/xuống và trước/sau).  Hiện nay có hai giải thích về vị trí của các chiều phụ thêm
·        Các chiều không gian  phụ thêm (đại cương 6 trong số này) co tròn lại đễ đạt tới những kích cỡ vô cùng nhỏ mà chúng ta chẳng bao giờ nhận thức ( perceive)được
·        Chúng ta bị kẹt trên một brane 3-chiều, và các chiều phụ thêm đều hướng ra ngoài brane này nên chúng ta không đụng tới được
Một lãnh vực nghiên cứu trọng đại cho các chuyên gia vể lý thuyết dây là tim những mô hình toán học đễ làm sao cho các chiều phụ thêm (extra dimensions) có thể liên hệ với các chiều cũa riêng chúng ta. Một số những kết quả mới nhất đã tiên liệu là các nhà khoa học sẽ sớm có thể phát hiện ra các chiều phụ thêm này (nếu có) qua nhửng thí nghiệm sắp tới đây

29 thg 8, 2014

Bài thuốc đơn giản chữa bệnh suy thận


Bài thuốc đơn giản chữa bệnh suy thận
Lương y Đào Hồ Phong Giao nói về tác dụng của thuốc nam
(PLO) -  Xuất thân từ gia đình nhiều đời theo nghề thuốc, cộng với niềm đam mê khám phá những cây thuốc dân gian, bác sĩ - lương y Đào Hồ Phong Giao (50 tuổi, ngụ đường Hoàng Hoa Thám, phường 5, quận Bình Thạnh, TP.HCM) đã nghiên cứu thành công nhiều bài thuốc dễ kiếm, hiệu nghiệm. Theo ông, bệnh suy thận cấp hoàn toàn có thể chữa khỏi bằng bài thuốc tự chế rất đơn giản, rẻ tiền.
Cây cỏ mực và đỗ đen trị bệnh suy thận cấp
Thành phần chính của bài thuốc là cây cỏ mực - cỏ nhọ nồi (có tên đông y là hạ liên thảo) và hạt đỗ đen. Hai loại thảo dược này rất tốt trong việc chữa trị chứng suy thận cấp, tức bệnh suy thận ở cấp độ mới mắc phải. 
Triệu chứng bệnh suy thận thường gặp như sau: Tiểu đêm, ngủ hay gặp ác mộng, tóc bạc sớm kèm biểu hiện đau lưng mỏi gối. Nếu không chữa trị kịp thời, để bệnh chuyển sang mãn tính sẽ rất khó chữa trị.
Ông Giao hướng dẫn: Hái cỏ mực đem rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô sau đó sao vàng trên lửa than. Hằng ngày dùng khoảng 30g cây cỏ mực nấu chung với 40g đỗ đen rang cháy vừa. Đun hỗn hợp cỏ mực và đỗ đen sôi rồi chắt lấy nước uống như uống nước bình thường. Mỗi thang thuốc có thể nấu nhiều lần. 
Bài thuốc từ cỏ mực và đỗ đen phù hợp với mọi cơ địa, không hề lo lắng xảy ra tác dụng phụ. Uống chừng vài thang thuốc, người bệnh sẽ thấy triệu chứng tiểu đêm thưa dần rồi giảm hẳn; đồng thời ăn ngon, ngủ ngon hơn. 
Bài thuốc không chỉ bổ thận mà còn giúp hệ thống cơ xương phát triển tốt. “Tây y bồi bổ xương khớp bằng cách cung cấp canxi trực tiếp. Còn Đông y bổ xương cũng thông qua việc tạo canxi nhưng thông qua bồi bổ thận”, lương y Giao giải thích. 
 Cây cỏ mực (có nơi còn gọi là cỏ nhọ nồi)
Tuỳ thể trạng từng người, bệnh tình thuyên giảm nhanh hoặc chậm khác nhau. Tuy nhiên đặc tính chung của thuốc  nam là phát huy công dụng chậm. Bởi vậy người bệnh cần kiên trì uống thuốc đều đặn. Cũng liên quan đến chứng suy thận, ông Giao khuyên mọi người nên chú trọng bảo vệ cơ quan này bởi thận giữ vai trò cốt yếu giúp cơ thể khoẻ mạnh: “Thận hoạt động tốt, chất độc trong cơ thể sẽ được đào thải hết ra ngoài, ắt bệnh tật tiêu tan”.
Phương pháp cai nghiện bằng châm cứu và thuốc đông y
Ngoài bài thuốc chứa suy thận cấp. ông Giao cũng cho biết có thể áp dụng liệu pháp châm cứu kết hợp thuốc đông y vẫn giúp con nghiện cắt cơn nghiện hiệu quả, đồng thời giảm chi phí đáng kể. 
Phương pháp châm cứu có tác dụng kích thích vào hệ thần kinh, thúc đẩy quá trình tạo hoóc môn của cơ thể, tạo sự cân bằng giúp con nghiện cắt cơn. Tất nhiên mỗi người nghiện ma tuý, nội tạng tổn thương ở mức độ khác nhau nên phương pháp kích thích bằng kim châm cứu cũng khác nhau. Mỗi lần châm cứu sẽ tác động trực tiếp vào nhóm huyệt trên dưới 10 huyệt đạo. Thời gian châm cứu chỉ kéo dài chừng nửa tiếng đồng hồ. 
Khi áp dụng liệu pháp này, thầy thuốc cần nắm rõ chu kì lên cơn nghiện của con nghiện. Căn cứ vào đó, phải tiến hành châm cứu trước thời điểm phát cơn một tiếng đồng hồ nhằm giúp cơ thể sản sinh hoóc môn ức chế kịp thời. “Thông thường, mỗi liệu trình châm cứu kéo dài từ 15 - 25 ngày. 
Nếu con nghiện lên cơn 2 – 3 lần/ngày thì cũng phải châm cứu cắt cơn tương đương chừng đó lần. Bên cạnh tác dụng kích thích quá trình tạo hoóc môn kháng thể, châm cứu còn giúp ổn định hệ thần kinh người nghiện”, ông Giao trình bày.
Song song với quá trình châm cứu, người nghiện ma tuý nên sử dung bài thuốc “Thập toàn đại bổ” nhằm bổ dưỡng ngũ tạng tổn thương, lấy lại sức đề kháng. 
Bài thuốc gồm thành phần như sau, liều lượng mỗi vị dao động từ 6 đến 20g: Đản sâm (có tác dụng bổ khí, sơn thù; nói cách khác là bổ thận âm), bạch truật (bổ tỳ, tăng đề kháng, kích thích ăn uống), hoài sơn (bổ tỳ, khí), thục địa (bổ thận dương), sài hồ (bổ thận âm, thanh nhiệt), cam thảo (giải độc, làm trung hoà các dược liệu), bạch chỉ (kháng viêm, có tác dụng trị đau vùng thượng đình), táo nhân; và viên chỉ (có tác dụng an thần, bổ tâm can). 
Đem bài thuốc trên sắc lấy nước uống, thời gian uống là trước bữa ăn chừng 30 phút. Theo ông Giao, nếu kết hợp song song liệu pháp châm cứu và uống thuốc sẽ rút ngắn thời gian cai nghiện hơn. Nguyên lý chung của hai phương pháp đều nhằm mục đích tạo sự cân bằng cơ thể, ổn định thần trí. Từ đó người nghiện “quên” đi cơn “đói” ma tuý.
Tương tự bài thuốc nam trị chứng suy thận cấp, cai nghiện bằng y học cổ truyền giúp con nghiện rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí. Hơn nữa, sử dụng thuốc đông y hoàn toàn không lo lắng xuất hiện tác dụng phụ ngoài ý muốn. Nhất là người nghiện ma tuý sử dụng nhiều thuốc tây y dễ gây tổn thương các bộ phận khác trong cơ thể. Vị lương y cung cấp thêm, tất cả mọi người, nhất là người lớn tuổi đều có thể áp dụng bài “Thập toàn đại bổ” để tăng cường sức khoẻ. 
Ông Giao được đánh giá là vị thầy thuốc giỏi về chuyên môn, từng công tác nhiều năm tại Viện Y dược học TP.HCM. Mười hai tuổi cậu bé đã học nghề đông y, sau đó tốt nghiệp trường Đại học Y dược TP.HCM. Suốt thời gian công tác tại viện y dược học, ông Giao nhiều lần được những bệnh viện nước ngoài trực tiếp mời sang giảng dạy, thực nghiệm chữa bệnh đông y. 
Ông từng đem phương pháp châm cứu, thuốc y học cổ truyền sang Nga, Pháp, Thổ Nhĩ Kì. Bệnh nhân những nước này rất chuộng liệu pháp trị bệnh không cần dùng thuốc như kĩ thuật châm cứu, bấm huyệt của người Việt. 
Mang trong mình hai trường phái y học, ông Giao quan niệm muốn trị bệnh hiệu quả cần biết cách kết hợp hài hoà giữa Đông và Tây y. Nói cách khác tức kết hợp hài hoà hai yếu tố cổ (tức đông y) và kim (y học hiện đại): “Mỗi ngành đều có cái hay của nó. Nếu biết kết hợp sẽ tăng cao tính hiệu quả trong việc chữa trị bệnh tật”, ông Giao trải lòng.
Huế Thương

27 thg 7, 2014

Sự thực ít biết về Tượng thần tự do NewYork ở Hà Nội xưa

print friendly
(Kiến Thức) - Tượng nữ thần tự do nay là một biểu tượng của thành phố NewYork nói riêng và nước Mỹ nói chung. Nhưng ít ai biết Hà Nội từng có một phiên bản của bức tượng này.



Người Mỹ nói chung và người dân NewYork nói riêng coi tượng thần tự do là biểu tượng đáng tự hào của họ. Nhưng thật ra, đây lại là tác phẩm của các nhà kiến trúc, điêu khắc Pháp thế kỷ 19. Năm 1875, chính phủ Pháp đã đặt hàng kiến trúc sư Bartholdi một bức tượng để tặng cho chính phủ Mỹ nhân kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh Mỹ. Phải mất gần 10 năm, Bartholdi mới hoàn thành công trình tượng thần tự do khổng lồ với khối lượng 204 tấn này. Năm sau, tượng được đưa lên tàu chiến Mỹ đem về đặt ở cảng New York. 

Sau khi trao cho chính phủ Mỹ tượng thần tự do, người Pháp cũng tạo thêm một vài phiên bản nhỏ hơn nhiều để đem dự triển lãm. Một trong số những phiên bản đó được đem sang triển lãm ở Việt Nam năm 1887 và sau đó, được tặng cho thành phố Hà Nội. Bức tượng mang sang Hà Nội cao 2,5m làm bằng đồng. Vì tượng mặc áo lòe xòe nên người dân gọi nôm na là tượng bà đầm xòe. 

Lúc đầu, tượng được đặt ở vườn hoa trung tâm gần tòa công sứ (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ). Sau đó, vào năm 1891, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương muốn thay vào đó tượng Pôn Be (paul Bert) - viên toàn quyền Đông Dương đầu tiên, nên đã hạ tượng bà đầm xòe xuống. Trong lúc còn chờ xây dựng bệ đá đặt tượng Pôn Be và tìm vị trí mới đặt tượng bà đầm xòe, cả hai bức tượng bị hạ xuống nằm chỏng trơ trên nền cỏ. Nhân đó, người Hà Nội đặt câu vè để chế diễu:
“Ông Pôn Be lấy bà đầm xòe
Trước nhà kèn ò e í e”

Sau nhiều cuộc tranh cãi, cuối cùng, chính quyền thực dân Pháp ở Hà Nội quyết định đặt tượng bà đầm xòe trên nóc tháp Rùa mà họ gọi là ngôi đền nhỏ. Bức tượng được đặt ở đó từ năm 1891 đến 1896. Mặt tượng hướng về phía đông tức là khu vực vườn hoa Lý Thái Tổ ngày nay. Sau năm 1896, một lần nữa người ta lại di dời bức tượng này về vườn hoa Cửa Nam.


 Ảnh chụp tháp rùa với tượng bà đầm xòe được đặt trên nóc.

Tháng 7/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được quân Nhật dựng lên. Ở Hà Nội, cụ Trần Văn Lai được bổ nhiệm làm thị trưởng. Là một người yêu nước, cụ Lai đã cho đổi lại tên hầu hết các con phố Hà Nội từ những tên của Pháp sang tên các danh nhân nước Việt mà cụ biết. Đồng thời với hành động đó, cụ Lai cũng ký quyết định cho giật đổ nhiều tượng đài tàn tích của thực dân Pháp. Một trong số chúng là tượng bà đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam. 

Như vậy, so với “người anh em” của mình bên Mỹ, tượng bà đầm xòe đã không thể yên ổn ở một chỗ. Ít nhất nó đã phải ba lần di chuyển. Và trong khi tượng thần tự do ở Mỹ trở thành một biểu tượng để người dân nước này tự hào thì tượng bà đầm xòe là thứ khiến cho người Việt căm ghét vì nó gắn với sự xâm lăng của bọn thực dân.

Những thứ tự do, bình đẳng, bác ái giả hiệu mà bọn thực dân nêu ra khi xâm lăng nước Việt không thể ru ngủ người Việt. Bởi thế, chúng chẳng thể đặt bức tượng lòe bịp ấy ở yên một chỗ lâu dài. 

Người Việt ta có tính tiết kiệm, phàm cái gì đã hư hỏng cũng đều cố tận dụng để làm việc khác. Từ khi thứ nghề “đồng nát” ra đời, những vật hỏng quá không còn giá trị sử dụng thì đem bán đồng nát cho đỡ phí của. Và tượng bà đầm xòe cũng được người Việt cho đi theo truyền thống. Đó là thanh lý đồng nát. 

Cụ thể, năm 1952, dân làng Ngũ Xã – một làng có nghề đúc đồng nổi tiếng ở Hà Nội, có ý định đúc một bức tượng phật A Di Đà, họ đã xin mua lại hai bức tượng trên để lấy đồng. Pho tượng A Di Đà này cao 3,95m, nặng hơn 12 tấn được đánh giá là hoàn hảo, không hề có một chút sai sót nào về kỹ thuật đúc và là pho tượng A Di Đà bằng đồng đầu tiên ở Việt Nam. 
 Hiện tại tượng ông Pôn Be và bà đầm xòe đã nằm trong pho tượng
phật A Di Đà ở chùa Ngũ Xã.

Vậy là tượng ngài Pôn Be với “bà đầm xòe” – đại diện cho cái tự do giả hiệu ở xứ An Nam bị nấu chảy để đúc nên tượng phật A Di Đà với gương mặt hiền từ luôn cảm thông, cứu vớt những nỗi đau trần thế. Sự kết thúc của pho tượng nữ thần tự do ở Việt Nam có thể là vô tình hay hữu ý của những người thợ đúc. Tuy nhiên, nó rất hợp với bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt. Truyền thống đó là luôn tiếp thu văn hóa bên ngoài để làm giàu nền văn hóa của dân tộc nhưng cũng luôn bài trừ rất mạnh những yếu tố văn hóa đi cùng các đội quân xâm lược. 


Minh chứng cho điều này, ta có thể ví dụ: học thuyết Nho giáo đã phát triển từ trước Công Nguyên ở Trung Quốc, tuy nhiên, suốt gần 1.000 năm người Hán thống trị nước Nam, dù dùng vũ lực để ép người Việt học văn hóa Hán, ăn mặc giống người Hán mà kết quả vẫn chẳng được bao nhiêu. Nhưng từ khi người Việt lấy lại độc lập thì lại chủ động tìm học Nho giáo và tạo ra một thời vàng son của chế độ khoa cử. Nhiều trí thức Việt khi sang phương Bắc đối đáp về Nho giáo, Khổng học khiến triều đình Trung Quốc phải kính nể. Đó là một minh chứng rất rõ ràng về khí phách kiên cường bất khuất của người Việt Nam.