28 thg 12, 2014

Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì


Từ ngày tình cờ phát hiện ra công thức trị ho cho trẻnày, mỗi khi con bị ho hắng, sổ mũi hay cảm lạnh…lòng em chẳng còn nóng như lửa đốt.
....
Em vỡ ối, chuyển dạ sớm nên con phải sinh mổ, lại đúng đợt gió mùa đông bắc rất lạnh. Có lẽ cũng vì lý do đó nên ngay từ lúc mới sinh, hệ hô hấp của Nhím đã kém hơn các bạn. Không cứ mùa đông hay mùa hè, hầu như cứ 1,2 tháng con lại bị ho một lần, mỗi lần kéo dài cả tuần, thậm chí cả tháng mới hết. Đến nay đã được gần 2 tuổi, em đếm không hết bao nhiêu lần Nhím phải đi khám, uống đủ loại siro và thậm chí cả kháng sinh mà bác sỹ kê.




Đợt này thời tiết miền Bắc trở lạnh, hầu hết các bạn nhỏ đều bị ho, sổ mũi nên Nhím cứ khỏi được 4,5 ngày thì đi mẫu giáo lại bị lây bạn. Bao nhiêu mẹo trị ho dân gian để cả những loại siro đắt tiền của Nhật, Pháp, Mỹ…em đều đã thử qua cho con. Vậy nhưng Nhím uống hết nguyên lọ mà tình hình vẫn không thấy đỡ. Nhìn con ho đỏ bừng mặt, cả đêm cứ đang ngủ lại bật dậy ho rồi khóc, đờm trong họng nghe đặc quánh mà không thể tự thải ra, cả gia đình em lo lắng mất ăn mất ngủ. Ông bà và chồng cứ giục giã đưa con đi khám nhưng em thì chần chừ không muốn. Nhím đi khám cũng đã nhiều nơi, đơn thuốc vẫn vậy: siro ho và kháng sinh. Em không muốn con phải tiếp tục như vậy.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 1
Mùa đông, tháng nào con cũng ho, sổ mũi mất 1,2 tuần (ảnh minh hoạ)
Đêm hôm ấy, nửa đêm đang ngủ, Nhím lại tỉnh giấc, ho liên tục 15 phút không nghỉ. Nhớ đến lọ siro tự chế bằng hành tỏi mật ong theo công thức của mẹ Tây mà có lần em tình cờ đọc được, đã tự làm mà chưa dám cho con uống vì sợ mùi hăng con không chịu, em quyết định lấy ra cho Nhím thử xem sao. Kết quả thật bất ngờ, sau khi uống một thìa “thuốc lạ” của mẹ, Nhím đột nhiên ho rồi sặc ra một cục đờm rất to. Tối đấy, con ngủ ngon hẳn không còn một tiếng động nào suốt đêm. Uống thêm 2 ngày nữa thì hầu như mọi triệu chứng hắt xì, chảy nước mũi, ho đờm của con gần như hết hẳn.


Từ ngày tình cờ phát hiện ra công thức này, mỗi khi con bị ho hắng, sổ mũi hay cảm lạnh…lòng em chẳng còn nóng như lửa đốt, cứ thong thả “chế thuốc ho” rồi cho con uống, hầu như không lần nào Nhím ho quá 3 ngày. Bản thân Nhím cũng rất thích uông “thuốc ho” này vì nó không hề có mùi hành, tỏi như em vẫn lo. Tuy nhiên để đảm bảo, sau khi ngâm xong, em luôn cẩn thận chắt nước riêng, hành tỏi bỏ đi để con không phát hiện ra.

Công thức này em đã mách cho nhiều người để trị ho cho trẻ, đều rất hiệu nghiệm. Chị em đang có con bị ho cùng thử xem sao nhé!

- Hành tím 1 củ
- Tỏi nhỏ 2 củ hoặc tỏi to 1 củ
- Hành tỏi bóc vỏ rửa sạch, thái khoanh tròn.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 2
Hành tỏi bóc vỏ rửa sạch, thái khoanh tròn.
- Cho hành tỏi đã thái vào lọ, đổ mật ong ngập miệng rồi ngâm qua đêm hoặc 12 tiếng.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 3
Cho hành tỏi đã thái vào lọ
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 4
Đổ mật ong ngập miệng rồi ngâm qua đêm hoặc  8 -12 tiếng
- Chắt hành tỏi bỏ đi, lấy nước siro cho con uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 thìa cafe. Bảo quản trong nhiệt độ phòng.
Uống nước tỏi mật ong, con hết ho tức thì - 5
Nước hành tỏi mật ong cho con uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 thìa cafe
Chúc mẹ thành công!

Người Nhật Bản làm việc như thế nào






Nguồn từ Kicbu! Thanks Kicbu! 

http://kichbu.blogspot.com/2014/12/nguoi-nhat-ban-lam-viec-nhu-nao.html 

Как работают японцы


Маria Karpova

Kichbu theo: zavtra.ru
Nhân viên công ty Epson kể

Có suy nghĩ khuôn sáo rằng ở Nhật Bản làm việc tốt. Ý kiến này xuất phát từ những đồng hương của chúng ta đang làm việc theo lời mời của các công ty nước ngoài, nơi người Nhật cố gắng để điều chỉnh theo mức độ và phong cách của người nước ngoài. Trong khi đó, hệ thống lao động truyền thống của Nhật Bản được tổ chức độc đáo, và tồn tại trong đó khá nặng nề. Chính  vì vậy  người nước ngoài thăng tiến trong các công ty Nhật Bản cổ điển không nhiều đến vậy. Nhân viên của công ty Epson, Marina Matsumono kể về nhân viên văn phòng bậc trung ở Nhật Bản làm việc như thế nào.

Quy định ăn mặc.

Dĩ nhiên, các quy tắc phụ thuộc vào công ty cụ thể, nhưng về nguyên tắc quy định ăn mặc tại Nhật Bản chặt chẽ hơn nhiều so với ở Nga. Việc không tuân thủ các quy tắc của nó sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng đối với nhân viên, cho đến mức bị sa thải ngay lập tức.

Trong công ty truyền thống của Nhật Bản nhất thiết phải mặc trang phục màu đen bất kể thời tiết, ngay cả khi ngoài trời  +40. Người Nhật Bản chịu đựng một cách bình thản cả lúc nóng bức, cả giá lạnh, bởi họ trải qua sự tôi luyện khốc liệt đối với cơ thể khốc liệt từ tấm bé. Gần đây đã một luật mới cho phép mặc áo ngắn tay đến nơi làm việc. Điều này liên quan đến lý do buộc phải tiết kiệm điện, khi bây giờ trong các văn phòng ngay cả trong điều kiện thời tiết nóng bức không phải lúc nào cũng sử dụng máy điều hòa không khí.

Trong một số công ty, phụ nữ bị cấm mặc trang phục gây chú ý - trang phục phải tuyệt đối đứng đắn. Váy nhất thiết phải phủ đầu gối.

Đồ nữ trang cũng bị cấm. Tôi có một công ty quan trọng, nổi tiếng thế giới. Nhưng nơi tôi làm việc hầu hết là người Nhật Bản. Tại nơi làm việc của tôi, họ cho phép tôi được đeo chỉ thánh giá - phía trong áo để không ai trong thấy nó, và nhẫn cưới.

Trang điểm không nên lộ rõ. Phụ nữ Nhật Bản thích tô điểm rực rỡ, đôi má rất ửng hồng, hầu hết dùng lông mi giả. Nhưng tại nơi làm việc, phụ nữ nên nom càng ít thu hút đàn ông càng tốt.

Ở một số nơi, phụ nữ chỉ nên để tóc ngắn, không phủ kín tai. Màu tóc - phải là màu đen. Nếu do tự nhiên, chẳng hạn, cô gái tóc vàng - cần phải nhuộm tóc.

Đàn ông ngoại trừ mái tóc để dài, bị cấm để râu quai nón và ria mép. Đó một quy tắc bất thành văn mà tất cả mọi người đều biết. Lối sống ổn cố Yakuza (hình thức truyền thống của tổ chức tội phạm ở Nhật Bản) ngăn cản.

Quan hệ tùng thuộc.

Khi được bố trí vào làm việc, tôi đã ký một loạt các văn bản, nơi tôi cam kết rằng tôi sẽ không trao đổi với khách hàng và đồng nghiệp bất kỳ điều gì ngoài công việc: cả về thời tiết, cả về thiên nhiên. Tại nơi làm việc tôi không có quyền chia sẻ "các dữ liệu cá nhân" của mình - chồng tôi là ai, công việc của tôi như thế nào... Ở nhà, tôi không có quyền kể về công việc của mình. Công việc của tôi không bí mật, nhưng đã chấp nhận và thỏa thuận như vậy trong hợp đồng của tôi.

Đến nơi làm việc chỉ được mang theo những vật dụng cần cho công việc: đối với tôi đó là tài liệu và cây bút. Túi xách, ví tiền và điện thoại tôi không thể mang theo, tất cả phải được để lại ở chỗ kiểm soát ra vào.

Ở Nga có một câu nói được ưa thích: "Xong việc - chơi thoải mái". Tại nơi làm việc ở Nga điều chủ yếu là bạn hoàn thành kế hoạch của hôm nay. Ở Nhật Bản "kế hoạch của hôm nay" không làm ai bận tâm. Bạn đã đến nơi làm việc, và phải làm việc tại đó.

Người Nhật kìm hãm quá trình làm việc như thế nào.

Ở Nga, tất cả chúng ta đều biết rằng tiền lương phụ thuộc vào kết quả công việc của bạn. Nếu làm việc kém - bạn chẳng nhận được gì cả. Nếu làm việc tốt - bạn sẽ được nhận tiền thưởng và thăng tiến trong công việc. Nếu bạn đã hoàn thành tất cả công việc, có thể về sớm hơn hoặc xin làm việc bổ sung để kiếm được nhiều tiền hơn.

Ở Nhật Bản trả tiền theo giờ làm việc. Hầu như tất cả người Nhật Bản nhận tiền làm ngoài giờ. Nhưng điều này thông thường biến thành thực tế là họ kéo dài một công việc có thể thực hiện trong vòng hai giờ - thành một tuần. Thời hạn được quy định bởi công ty cũng không phải luôn luôn tương ứng với mức độ phức tạp của công việc. Người Nhật Bản sẽ dềnh dàng hàng giờ, chúng ta cảm tưởng  rằng họ làm việc vật vờ, còn họ cho rằng đang thực hiện công việc "chăm chỉ". Họ đang kìm hãm quá trình làm việc thật không thể tưởng tượng nổi, bởi vậy làm việc với họ chúng tôi thật khó khăn.

Và, tiện thể nói thêm, đây là một trong những nguyên nhân, theo đó nền kinh tế của họ không phải ở trạng thái tốt nhất. Với hệ thống trả lương theo giờ, họ đã đưa mình vào bẫy. Bởi, trên thực tế, công việc không nhắm vào chất lượng, mà là số giờ tại văn phòng.

Những cuộc trao đổi tràng dang đại hải kéo dài

Chúng ta đều biết rằng "ngắn gọn - mẹ đẻ của tài năng", ở Nhật Bản ngắn gọn - đó là thiển cận trí tuệ. Người Nhật Bản không thể nói một cách ngắn gọn ngay cả về công việc. Họ rơi vào giải thích lê thê và tràng dang mà chúng chỉ nhắm để một người thiển cận hiểu họ nói gì với người ấy. Các cuộc họp có thể kéo dài với hàng giờ không thể tin nổi. Người Nhật Bản cho rằng nếu họ nói nhiều và rất chi tiết về một và chỉ một việc, thì như vậy họ tôn trong người đối thoại.

Phân tầng của xã hội.

Để trồng lúa cần rất nhiều công việc và tổ chức. Bởi vậy, trong lịch sử tại Nhật Bản đã hình thành hệ thống lao động chuyên môn rất hẹp và phân tầng xã hội gay gắt. Mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình vị trí của mình trong quá trình sinh sống sản xuất.

Các cộng đồng Nhật Bản luôn luôn được tổ chức rạch ròi. Chẳng hạn samurai không bao giờ chuẩn bị bữa ăn cho bản thân, samurai có thể dễ dàng chết đói nếu như nông dân không cứu giúp.

Như hệ quả của tâm lý này, bất kỳ người Nhật Bản nào thường rất khó tự mình ra quyết định mà không vốn cố hữu theo địa vị. Họ không thể nhận về mình trách nhiệm tối thiểu, mà nó vượt ra ngoài khuôn khổ công việc hàng ngày thông thường của họ thế nào đó. Đặt một dấu phẩy hoặc không đặt - đây cũng là vấn đề mất cả nửa ngày. Chuẩn bị các tài liệu đơn giản - đó là chuỗi của các tham vấn bất tận. Hơn nữa, trách nhiệm của những cuộc tham vấn như vậy làm kinh ngạc. Nếu người lao động dù sao lấy cho mình lòng dũng cảm ra quyết định không theo địa vị, thì tất cả mọi người trong chuỗi tầng bậc liên quan đến người đó sẽ bị khiển trách. Đây là chuyên chế phương Đông trong hành động: "Tôi - con người nhỏ bé, tôi - một người nông dân bình thường, và tôi còn phải làm công việc chỉ dành cho tôi".

Một lần nữa, tất cả mọi vấn đề đều lý giải được: Nhật Bản - một đất nước nhỏ bé với dân số quá lớn, cần  những khuôn khổ và quy tắc nghiêm ngặt. Để sống được ở Nhật Bản - cần nhận thực rõ: giới hạn của tôi là ở đây, và còn đây là giới hạn của người khác, tôi phải tôn trọng . Không ai vượt ra ngoài phạm vi của mình. Nếu người Nhật Bản vượt ra ngoài khôn khổ, thì họ sẽ bị mất hút đúng trong nghĩa đen.

Nga là đất nước mênh mông, rộng lớn. Chúng ta không bị bó hẹp. Chúng ta phóng khoáng. Người Nga có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Và người Thụy Điển, và các những người dân tộc khác… - đây trước hết nói về chúng ta, những người Nga!

Cũng như tất cả mọi người.

Điều thú vị rằng, ở Nhật Bản bạn không nên thể hiện sự khác biệt hoặc ưu thế về trí tuệ. Bạn không thể bày tỏ tính độc đáo, riêng biệt của mình. Điều này không được chào đón. Tất cả cần phải giống nhau. Từ nhỏ ở đó tính độc đáo đã bị tận diệt, bởi vậy Nhật Bản sẽ không mang lại cho thế giới Einstein hay Mendeleev.

Các công nghệ nổi tiếng của Nhật Bản - huyền thoại. Như quy luật, đó là những ý tưởng được hình thành không phải bởi người Nhật Bản. Họ biết làm tốt việc gì, thì đó là khéo léo bắt chước đúng lúc và hoàn thiện điều này. Còn chúng ta ngược lại - chúng ta có thể tạo ra điều vĩ đại và quên ...

Để tồn tại được trong xã hội Nhật Bản, bạn cần phải giống như mọi người. Ở Nga, trái lại, nếu bạn cũng giống như mọi người - bạn sẽ bị mất hút. Luôn cần những ý tưởng mới để chinh phục và lấp đầy không gian rộng lớn.

Thăng tiến.

Trong công ty cổ điển Nhật Bản, người ta xây dựng con đường thăng tiến lâu dài. Thăng tiến nghề nghiệp phụ thuộc vào độ tuổi, chứ không phải công lao. Một chuyên gia trẻ, thậm chí rất tài năng sẽ giữ chức vụ không quan trọng, phải làm nhiều việc và lương thấp, bởi vì anh ta người mới. Vì tổ chức quá trình lao động như vậy, người Nhật Bản phải cạnh tranh ngày càng khó khăn trên thị trường quốc tế. Đúng vậy, tồn tại khái niệm chất lượng Nhật Bản, nhưng điều này không cứu được họ, bởi vì kinh doanh được thực hiện quá ư là Nhật Bản.

Lương.

Chính thức tại Nhật Bản lương cao. Nhưng trừ tất cả các khoản thuế, chiếm xấp xỉ 60%, mọi người được nhận tận tay trung bình một nghìn dollars. Những người trẻ tuổi nhận được thậm chí ít hơn. Vào tuổi 60, lương món tiền khá lớn.

Kỳ nghỉ và những ngày nghỉ.

Tại Nhật Bản, không có kỳ nghỉ. Ngày nghỉ - đó là thứ Bảy hoặc Chủ Nhật. Và tùy thuộc vào công ty mà bạn thể có một số ngày nghỉ bổ sung trong năm. Chẳng hạn, 10 ngày, nhưng không thể nghỉ ngay lập tức. Cần phải chia nhỏ các ngày nghỉ. Chẳng hạn như lấy một ngày nghỉ trong tuần - và đi đâu đó theo công việc. Ở công ty của tôi, tôi có nghĩa vụ phải thông báo về điều này trước một tháng để tất cả mọi người hợp lại và thay thế tôi. Trong số các công ty khác, những thời hạn còn thậm chí nhiều hơn. Một sự kiện bất ngờ vắng mặt tại nơi làm việc là cả vấn đề.

Nếu bạn bị ốm vào thứ hai và không nghĩ rằng không đi làm việc,thì họ sẽ không hiểu bạn. Tất cả mọi người hăng hái đi làm việc.

Ngày lễ có thể là ngày nghỉ: ngày tưởng nhớ người chết - Obon vào trung tuần tháng Tám. Nhưng chuyên gia trẻ này không có cơ hội này, và phải làm việc hay năm đầu tiên không có ngày nghỉ thêm.

Năm mới được nghỉ 1-3 ngày. Nếu chúng trùng vào thứ Bảy và Chủ nhật, thì không như ở Nga, không ai chuyển ngày nghỉ sang thứ Hai thứ Ba.

Còn có thêm "tuần lễ vàng" vào tháng Năm, khi diễn ra liên tục những ngày lễ tôn giáo và nhà nước. Chồng tôi làm việc cả các ngày, tôi có 3 ngày nghỉ.

Ngày làm việc.

Ngày làm việc tiêu chuẩn từ 9 giờ sáng đến 7 giờ tối. Nhưng điều quan trọng nhất, bạn cần nhớ rằng, nếu đã quy định ngày làm việc từ chín giờ, thì không nên đến đúng giờ này.Thậm chí nếu bạn đến vào lúc 8.45 - xem rằng bạn đã bị muộn. Cần phải đến nơi làm việc ít nhất trước nửa giờ, một số đến trước một giờ. Cho rằng con người cần thời gian để lấy tinh thần làm việc, chuẩn bị cho công việc.

Kết thúc ngày làm việc chính thức không có nghĩa rằng bạn có thể về nhà. Không chấp nhận về trước sếp của mình. Nếu sếp còn nán lại văn phòng thêm hai giờ, thì bạn cũng phải ở lại thêm hai giờ nữa, và điều này không được tính là làm ngoài giờ. Những trường hợp cá nhân của bạn - đó là vấn đề của bạn mà như tôi đã đề cập, theo hợp đồng tôi đã ký với đồng nghiệp, là không trao đổi.

Tiếp xúc ngoài giờ.

Ở Nhật Bản có khái niệm như thế này - "nomikay" - "uống với nhau", gợi nhớ đến phường hội Nga. Đâu đó "nomikay" diễn ra hàng ngày, trong công ty của tôi - hai lần một tuần. Dĩ nhiên, có thể từ chối, nhưng họ sẽ "ngấm nguýt" bạn. Tại sao uống? - Bởi vì ở Nhật Bản xem uống  rượu với thái độ tích cực. Thần  đạo Shinto muốn làm lễ tế cho các vị thần thông qua rượu. Các bác sĩ Nhật Bản cho rằng uống rượu hàng ngày là hữu ích. Không ai nói uống bao nhiêu là vừa.

Người Nhật Bản không biết uống rượu, và, thường uống rất say. Với bạn việc uống sẽ chẳng đáng giá bao nhiêu, hoặc là sếp, hoặc là công ty luôn luôn trả tiền cho chầu rượu.

Bây giờ, để kích thích thêm viếc đến các quán bar với các đồng nghiệp - người lao động bắt đầu thậm chí trả tiền cho "nomikay." Đây là một phần của văn hóa Nhật Bản - cùng nhau làm việc và cùng nhau uống. Vậy ra rằng gần như 24 giờ một ngày của 365 ngày một năm bạn chỉ dành thời gian chỉ với các đồng nghiệp.

Ngoài "nomikay", cần phải uống với khách hàng, đối tác, quan chức mà công ty có quan hệ.

Thật vậy, ở Nga có cái gì đó tương tự, nhưng điều đó hoàn toàn không thể so sánh với quy mô uống rượu như ở Nhật Bản. Đúng vậy và sau đó ở Nga người ta xem uống rượu xấu xa hơn nhiều.

***

Bây giờ bạn có thể hình dung bức tranh toàn cảnh. Người Nhật Bản ra khỏi nhà lúc 7 giờ sáng. Tại nơi làm việc, nó tồn tại trong khuôn phép nghiêm ngặt theo địa vị của mình. Sau khi kết thúc ngày làm việc chính thức mọi người sẽ làm thêm giờ, bởi cần họ nuôi sống gia đình. Sau đó họ  đi uống rượu với các đồng nghiệp trở về nhà từ đó lúc 2 giờ sáng, có nhiều khả năngsay. Họ làm việc vào các ngày thứ Bảy. Chỉ thấy gia đình mình vào ngày Chủ nhật.  Thêm vào đó họ ngủ hoặc uống rượu suốt ngày nghỉ cho đến tối, bởi vì họ bị căng thẳng khủng khiếp vì chế độ làm việc như vậy.

Ở Nhật Bản, có một khái niệm riêng biệt - "Chết vì quá nhiều việc". Đó  chuyện rất thường xảy ra khi người ta chết sau bàn làm việc hoặc, không chịu được sức ép, đã kết  thúc cuộc đời mình bằng tự tử. Đối với Nhật Bản, đó là sự kiện thường tình, mà thực tế họ không phản ứng với nó. Người ta thậm chí sẽ nổi giận nếu ai đó tự tử gây khó dễ cho công việc của họ. Mọi người đều nghĩ rằng: "Tại sao cậu không làm điều này ở một nơi kín đáo, yên tĩnh, tôi vì cậu sẽ không đi làm đúng giờ !!".

Cần phải hiểu rằng xã hội Nhật Bản không ngồi yên và không nghĩ ra cho mình các quy tắc này. Tất cả  hình thành vì đặc trưng lịch sử và địa lý của Nhật Bản. Có lẽ, tất cả sẽ đồng ý rằng họ có những lý do xác đáng để động viên như vậy của xã hội, luôn luôn sẵn sàng cho bất cứ điều gì đó. Lãnh thổ nhỏ, đông dân, chiến tranh, động đất, sóng thần - vào bất cứ lúc nào tất cả đều có thể sụp đổ. Vì vậy, người Nhật từ thời thơ ấu đã học được cách làm việc theo nhóm, học  để tồn tại trên một rẻo đất của mình. Trong thực tế, toàn bộ nền giáo dục Nhật Bản được xây dựng không phải để dạy cho con người điều gì đó, phát triển nó, dạy cho con người trở thành người Nhật Bản thực sự, trở thành người có khả năng cạnh tranh chính trong xã hội Nhật Bản.. Không phải tất cả mọi người có thể chịu đựng nổi cuộc sống này, bởi vì điều này thực sự khó khăn.

14 thg 11, 2014

Tiền công trái và tiền tiết kiệm đi về đâu?

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam./ RFA

Chủ nhân của rất nhiều sổ tiết kiệm những năm 1975 - 1980
Những ngày gần đây, câu chuyện người dân cầm sổ tiết kiệm đến ngân hàng nhận tiền thì bị trả lời là cuốn sổ không còn giá trị hoặc số tiền nhận được không đủ mua một ổ bánh mì trong khi trước khi nhận hai mươi năm, họ đã bán cả lượng vàng để gởi tiết kiệm, rồi những tấm phiếu công trái khi mua với số lượng hàng chục lượng vàng, khi thanh toán thì không đủ một bữa nhậu đang là câu chuyện nhức nhối của xã hội, đặc biệt là những người từng tâm huyết đóng góp xây dựng đất nước.

Cái bẫy đổi tiền và trượt giá

Ông Bàng, chủ của tấm phiếu công trái trị giá bốn lượng vàng lúc mua, hiện sống tại Bình Thạnh, Sài Gòn, chia sẻ: "Công trái hồi đó nó bán giờ sau này mất hết, tại vì nó bán thời đó cả chỉ vàng mà sau này mua không được tô phở. Giá nó lên vùn vụt chứ không như bây giờ. Tiền in ra chừng vài năm sau như giấy lộn à. Tại vì sau 1975 thì nó đổi tiền thành 'tiền giải phóng'. Một đồng 'tiền giải phóng' ăn tới 500 đồng Bắc Việt lận. Trong khid đó đồng tiền của Bắc Việt chỉ là một tấm tín phiếu, không có giá trị tiền tệ thế giới. mà đồng Việt Nam Cộng Hòa thì đã được định giá trên đồng đô la, mang tính quốc tế rồi. Sau đó thêm mấy lần đổi tiền nữa... Giai đoạn sau này đồng tiền in ra chừng một năm đến hai năm đã hoàn toàn mất giá trị".

Theo ông, sự trượt giá của đồng tiền trong ba mươi năm nay cũng như lần đổi tiền bất ngờ năm 1985, sáng sớm, lúc 5 giờ sáng, đài phát thanh mới thông báo quyết định đổi tiền và ngay ngày hôm đó, việc đổi tiền được tiến hành ở các trụ sở ủy ban cấp xã, phường trên khắp Việt Nam. Chuyện này giống như một cái bẫy mà ngân hàng nhà nước đã giăng sẵn để bất kì người dân nào có tâm huyết xây dựng đất nước hoặc gởi tiết kiệm ở ngân hàng đều bị sập một cách thê thảm.

Nếu như năm 1975, việc đổi tiền ở miền Nam Việt Nam nhằm thống nhất tiền tệ từ tiền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam thành tiền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở hai miền thì năm 1978, việc đổi tiền nhằm thay đổi quốc hiệu ghi trên đồng tiền từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hai lần đổi này nghe ra có vẻ hợp lý và không cần bàn nhiều.

Nhưng lần đổi tiền năm 1985, đây là lần đổi tiền hết sức bất ngờ và kì cục, chuyển mệnh giá đồng tiền cũ giảm xuống còn 10% giá trị đồng tiền mới. Tờ 50 đồng lúc bấy giờ mang ra tiêu dùng ở bất kì nơi đâu cũng khó vì người bán hàng không đủ khả năng thối tiền thừa. Nhưng đó cũng là sự khởi đầu của lạm phát tàn bạo nhất trong lịch sử. Chỉ chưa đầy mười năm sau, tờ tiền mệnh giá 500 đồng ra đời nhưng cũng không trụ được bao lâu, tờ 1000 đồng ra đời, rồi 2000 đồng, 5000 đồng, 10,000 đồng, 50,000 đồng và liền sau đó là 100,000 đồng, hiện tại, tờ 500,000 đồng ra đời tuy chưa đầy 10 năm nhưng giá trị của nó rất thấp, mua không được một phần tư chỉ vàng.

Trong khi đó, lúc chuẩn bị đổi tiền, năm 1984, một lượng vàng có giá dao động từ 2000 đồng đến 2700 đồng, tính theo tiền mới sau năm 1985 thì nó trị giá 200 đồng đến 270 đồng. Và một người muốn sỡ hữu tờ 50 đồng trên tay, phải bán ra ba chỉ vàng. Nếu gởi tiết kiệm ba trăm đồng, phải bán đi hơn một lượng vàng và gởi 1000 đồng vào tiết kiệm phải mất đi gần bốn lượng vàng. Tiền mua công trái cũng vậy. Và đây là giai đoạn mà người ta gởi tiền kiệm bằng vàng và nhận cả lãi lẫn gốc sau này bằng cám heo.

Một cuốn sổ tiết kiệm có mệnh giá 1000 đồng lúc đó trị giá gần bốn lượng vàng, sau hơn hai mươi năm, tính cả lãi lẫn gốc, nếu như cuốn sổ vẫn còn giá trị thanh toán thì chủ của nó nhận chưa đầy  một 200,000 đồng. Sau hơn hai mươi năm gởi tiết kiệm để làm giàu bằng bốn lượng vàng, người ta nhận được số tiền mua chưa được một phân vàng. Tính theo tỉ giá thì nó trị giá chưa được 0,25% lúc gởi vào!

Tiền công trái, tiền tiết kiệm và tiền cổ phần hợp tác xã đi về đâu?

Một người tên Hiền, ở Bình Chánh, Sài Gòn, chia sẻ: "Đến năm 1985 thì nó tạm mở cửa, cởi trói gì đó vì nghe rằng Mỹ nó mở cấm vận. Nên bắt đầu tạm ổn nhưng mà tiền vẫn mất giá như thường, nhất là hồi Liên Xô sụp đổ đó, tiền nó lên vùn vụt, vùn vụt à. Một lần nữa sôi động về tiền, một cái nhà thời đó giá là 10 cây thì sau đó nó lên 150 cây. Trước năm 75 không dễ làm giàu như bây giờ, công chức trước 1975 không dễ tham nhũng như bây giờ vì luật lệ nó rất đàng hoàng. Hồi đó anh tỉnh trưởng không dễ kiếm tiền như bí thư tỉnh ủy, như chủ tịch tỉnh như bây giờ đâu. Không dễ buôn lậu từ Trung Quốc về bằng tàu lửa như bây giờ đâu, bây giờ làm giàu (bất chính) dễ chứ không như hồi đó đâu, kể cả cán bộ."

Theo ông Hiền, nếu như tính kĩ số vàng mà người dân đã mất đi trước và sau đổi tiền năm 1985 và đồng tiền bị trượt giá từ năm 1985 đến nay thì nhiều không thể tưởng tượng được. Vì những năm 1975 đến 1980, ngoài chuyện có nhiều gia đình bị tịch biên tài sản, mất hàng ngàn lượng vàng, còn có thêm tin đồn sau "giải phóng", vàng sẽ được dùng làm đai cuốc và cán mác. Và có bao nhiêu vàng người ta cũng mang ra đổi đồ, bán lấy tiền nhét vào ống tre, cột nhà để dự trữ. Đùng một cái, đổi tiền, số tiền  dự trữ chỉ còn bằng 10% và sau ba lần đổi tiền, đồng tiền trượt giá, số vàng bán đi để dự trữ bằng tiền mặt xem như thành mây thành khói, vàng mất mà tiền cũng không còn giá trị.

Trong khi đó, sau khi đổi tiền, một số không ít các gia đình bỏ ra mua công trái, gởi tiết kiệm, cả hai khoản tiền này xem như đổ sông đổ biển vì đồng tiền trượt giá quá nhanh. Nhưng câu chuyện không dừng ở đó, những năm 1990, các vùng thôn quê lại có thêm chuyện đặt cọc tiền trước khi sử dụng điện nhà nước. Thường thì mỗi hộ phải nộp vào hợp tác xã 50 ngàn đồng, tương đương với 3 phân vàng, rồi sau đó mới tự mua dây điện, bóng đèn để kéo điện về nhà. Mãi cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm sau, số tiền đặt cọc để đóng điện của người dân đã hoàn toàn mất dấu, khộng biết đòi ai vì hợp tác xã đã giải thể, vấn đề điện thắp sáng giao cho điện lực trực tiếp quản lý, trong khi đó tiền cọc lại nộp cho hợp tác xã.

Lại thêm chuyện bất kì xã viên nào cũng bị bắt buộc đóng tiền cổ phần vào hợp tác xã sản xuất với mức tiền tương đương một chỉ vàng những năm 1980. Nhưng mãi cho đến nay, loại hình hợp tác xã giải thể đã lâu vẫn không thấy tiền cổ phần hoàn trả cho xã viên. Cùng lắm thì mỗi dịp tết, các thôn bắc loa gọi dân đi nhận tiền lãi cổ phần của một năm với 15,000 đồng. Mọi năm đều thế, dịp Tết tới đây cũng không ngoại trừ. Và nếu xã viên có đi rút lại cổ phần cũng chẳng biết tìm ai để rút!

Tính cho đến nay, các khoản tiền công trái, tiết kiệm và cổ phần xã viên hợp tác xã mà hàng chục triệu dân đã tham gia xem như mất trắng, không có một lời cám ơn, thậm chí còn bị biến thành trò cười trong câu chuyện phiếm của các nhân viên ngành ngân hàng hiện tại!