7 thg 9, 2021

Tại sao Stephen Hawking không tin vào Thượng đế?

 

Tại sao Stephen Hawking không tin vào Thượng đế?

Stephen Hawking tin rằng có một “thiết kế vĩ đại” dành cho vũ trụ, nhưng nó không liên quan gì đến Thượng Đế. Với những bước đột phá liên tục, khoa học đang tiến gần đến “Học thuyết của mọi thứ”, và khi đó, Hawking tin rằng tất cả chúng ta sẽ có thể hiểu và hưởng lợi từ thiết kế vĩ đại này.

Chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống, công việc và thế giới quan của Stephen Hawking, người được xem như một trong những “bộ não” tuyệt vời nhất thế giới.

Stephen Hawking nói: “Tôi là một người vô thần.”

Trước khi qua đời ở tuổi 76 vào ngày 14 tháng 3 năm 2018, Stephen Hawking thường được coi là một trong những người thông minh nhất trên trái đất. Ông là một nhà vật lý nổi tiếng và là nhà vũ trụ học đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực vũ trụ học, vật lý lượng tử, hố đen và bản chất của không-thời gian.

Vì vậy, khi Hawking nói rằng Thiên Chúa không tồn tại và thêm câu, “Tôi là một người vô thần” đã gây chú ý trên toàn thế giới.

Hawking đưa ra tuyên bố gây tranh cãi này vào năm 2014 trong một cuộc phỏng vấn với Pablo Jauregui, một nhà báo đến từ El Mundo, một tờ báo tiếng Tây Ban Nha.

“Trước khi chúng ta hiểu về khoa học, mọi người đều tin rằng Thượng Đế đã tạo ra vũ trụ. Nhưng giờ đây khoa học đã đưa ra một lời giải thích thuyết phục hơn.

Ý tôi là ‘chúng ta sẽ biết tâm trí của Đức Chúa Trời’ là gì, chúng ta sẽ biết mọi thứ mà Thượng Đế biết, nếu có một Thượng Đế…nhưng mà không có. Tôi là một người vô thần.”

Hawking trở thành người vô thần từ khi nào?

Stephen Hawking có thể là một người vô thần từ khi còn nhỏ. Mặc dù gia đình ông ấy theo Thiên Chúa giáo nhưng trên thực tế, họ là những người trí thức và vô thần.

Là một cậu học sinh ở trường St. Albans, ông đã tranh luận khá nhiều với các bạn cùng lớp về tôn giáo. Trong những năm đại học ở Oxford và Cambridge, ông là một người vô thần nổi tiếng tại đây.

Người vợ đầu tiên của ông, Jane, người mà ông kết hôn vào năm 1965 và ly dị vào năm 1990 là một tín đồ của Thiên Chúa giáo.

Rõ ràng là họ không cùng quan điểm về các vấn đề tôn giáo, và điều này có lẽ là một trong những nguyên do khiến cả hai quyết định đi theo con đường của riêng mình.

Tuyên bố của Hawking phủ nhận sự tồn tại của Thiên Chúa không phải là một bất ngờ đối với bất cứ ai. Trong suốt nhiều năm, Hawking đã đưa ra nhiều phát biểu trái ngược với niềm tin tôn giáo. Một số được liệt kê dưới đây:

  • Chúng ta chỉ là một giống khỉ tiên tiến trên một hành tinh nhỏ của một ngôi sao rất trung bình. Nhưng chúng ta có thể hiểu vũ trụ. Điều đó làm cho chúng ta trở thành một cái gì đó rất đặc biệt.
  • Có một sự khác biệt cơ bản giữa tôn giáo, dựa trên giáo điều, và khoa học, dựa trên quan sát và tư duy logic. Khoa học sẽ thắng vì nó hoạt động.
  • Chúng ta được tự do tin vào những gì chúng ta muốn, và quan điểm của tôi chỉ đơn giản là không có Thượng Đế. Không ai tạo ra vũ trụ này, và có không ai quyết định số phận của chúng ta. Điều này dẫn tôi đến một nhận thức sâu sắc về thiên đường và thế giới bên kia, có lẽ chúng không có thật. Chúng ta có một cuộc đời để đánh giá cao “thiết kế vĩ đại của vũ trụ” và vì điều đó, tôi vô cùng biết ơn.

Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2011, Hawking đã nói: “Tôi coi bộ não như một máy tính, nó sẽ ngừng hoạt động khi các linh kiện của nó hết hạn sử dụng. Không có thiên đường hay thế giới bên kia cho cái máy tính đã bị hỏng; đó chỉ là một câu chuyện cổ tích cho những người sợ bóng tối…”

Hawking đã từng nói điều gì gợi ý niềm tin về Thiên Chúa?

Stephen Hawking đã đưa ra một số tuyên bố mơ hồ về Thiên Chúa. Ví dụ, trong cuốn sách “A Brief History of Time” được xuất bản vào 1988, ông thảo luận về ý nghĩa của nó nếu chúng ta khám phá ra lý do tại sao chúng ta và vũ trụ tồn tại.

Ông viết: “Đó sẽ là chiến thắng tối thượng của con người – đến lúc đó, chúng ta sẽ biết được tâm trí của Đức Chúa Trời.”

Một số người đã hiểu sai về tuyên bố này Hawking, họ cho rằng ông ấy tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn, Hawking đã giải thích rõ ràng rằng câu nói này chỉ là một phép ẩn dụ:

“Ý tôi là khi chúng ta biết ‘tâm trí của Thượng Đế’ thì chúng ta sẽ biết mọi điều mà Thượng Đế biết nếu Ngài ấy có thật.”

Phải chăng các nhà khoa học đều theo chủ nghĩa vô thần?

Stephen Hawking có rất nhiều đồng nghiệp theo chủ nghĩa vô thần. Theo khảo sát, có tới 93% các nhà khoa học hàng đầu thế giới không tin vào Thượng Đế. Trong khi đó, có khoảng 83% người Mỹ tin vào Đấng Tối Cao này.

Tạp chí Nature đã tiến hành một cuộc khảo sát vào năm 1998 với sự tham gia của các thành viên Học viện Khoa học Quốc gia, một nhóm các nhà khoa học hàng đầu có uy tín. Họ phát hiện ra rằng, chỉ có 7% các nhà khoa học tin vào Thượng Đế.

Hơn nữa, kết qua cũng cho thấy nhóm tín đồ bị thu hẹp theo thời gian khi so sánh nghiên cứu của họ với các nghiên cứu trước đây về bản chất tương tự (28% năm 1914 và 15% năm 1933), vì vậy có lẽ tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa giáo trong cộng đồng khoa học ngày nay thậm chí còn thấp hơn.

Một nghiên cứu tương tự cũng được tiến hành với các nhà khoa học Anh, đặc biệt là các thành viên của Hội Hoàng gia London. Có 42% người dân Anh tin vào sự tồn tại của Thiên Chúa, nhưng chỉ có 5% trong số các nhà khoa học tin điều này.

ALS đã ảnh hưởng đến niềm tin tôn giáo của Hawking?

Stephen Hawking được chẩn đoán mắc chứng xơ cứng teo cơ (ALS) ở tuổi 21. ALS là một bệnh thoái hóa thần kinh ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh trong não và tủy sống. Điều này khiến não không thể khởi động và kiểm soát chuyển động của cơ thể, dẫn đến tê liệt toàn bộ.

Vào thời điểm chẩn đoán, các bác sĩ cho rằng Hawking chỉ sống được thêm khoảng 2 năm. Nhưng ông ấy đã thách thức dự đoán đó và sống đến 76 tuổi. Trong nửa sau cuộc đời, ông gần như tê liệt hoàn toàn và chỉ sử dụng một bộ tổng hợp giọng nói để giao tiếp với kiểm soát của một cơ má.

Một số người nói rằng, cuộc sống lâu dài của Stephen Hawking là một phép lạ. Nhưng Hawking không tin điều này, và nói rằng, “Tôn giáo tin vào phép lạ, nhưng nó không tương thích với khoa học.”

Do đó, bệnh tình của Hawking không đóng vai trò gì trong quan điểm của ông đối với Thượng đế. Cũng giống như ông không cần Đức Chúa Trời giải thích sự tồn tại của vũ trụ, ông cũng không cần Đức Chúa Trời giải thích sự sống còn của mình.

Hawking có một ý chí mãnh liệt để sống và một ham muốn bướng bỉnh không cho bệnh tật ảnh hưởng đến cuộc sống ý nghĩa của ông. Hawking đã nói:

“Bạn luôn luôn có thể làm và thành công một điều gì đó đặc biệt trong mọi hoàn cảnh. Còn sống là còn hy vọng.”

Tôn trọng phương châm này, Hawking đã sống một cách tốt nhất có thể. Ông có ba đứa con với người vợ đầu tiên là Jane, tái hôn vào năm 1995 với người chăm sóc Elaine Manson (họ đã ly dị vào năm 2006). Ông tiếp tục viết sách và giảng dạy cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Hawking đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý cho công việc của mình, và là tác giả của một số cuốn sách nổi tiếng, bao gồm cả một cuốn tự truyện.

Những thành tựu khoa học của Stephen Hawking thậm chí còn được nuôi dưỡng bởi căn bệnh của ông. Khi không thể sống một cuộc sống thể chất bình thường, ông ấy dành hết thời gian để cống hiến mình cho cuộc sống bên trong của tâm trí. Ngoài ra, cảm giác rằng ông không còn nhiều thời gian cũng thúc đẩy ông làm việc chăm chỉ và sâu sắc hơn.

Stephen Hawking giải thích như thế nào về vũ trụ?

Trong cuốn sách được xuất bản năm 2010, “The Grand Design” được viết với đồng tác giả và nhà vật lý Leonard Mlodinow, Hawking đưa người đọc vào một hành trình từ những niềm tin sớm nhất về việc tạo ra vũ trụ cho đến tận cùng của vũ trụ học hiện đại, bao gồm vật lý lượng tử, lý thuyết dây, đa vũ trụ và học thuyết M.

Cùng nhau, những học thuyết này mang chúng ta đến gần hơn với những gì mà các nhà khoa học gọi là “Học thuyết của mọi thứ”, một học thuyết thống nhất tất cả.

Cuốn sách này không đưa ra câu trả lời trực tiếp về niềm tin vào Thiên Chúa. Ngay lập tức, trên trang 8, Hawking viết:

“Học thuyết M dự đoán rằng có rất nhiều vũ trụ được tạo ra từ hư không. Sự sáng tạo của chúng không đòi hỏi sự can thiệp của một nhân vật siêu nhiên hoặc Thượng Đế. Thay vào đó, những vũ trụ này xuất hiện tự nhiên từ quy luật vật lý.”

Một cái gì đó từ không có gì? Nó không có lý ngay lập tức. Chúng ta có phản ứng này bởi vì, ở cấp độ con người trải nghiệm vũ trụ, chúng ta thấy nguyên nhân và các hiệu ứng. Nhưng nguyên nhân và hiệu ứng không tồn tại ở cấp lượng tử theo cùng một cách mà chúng ta trải nghiệm nó.

Ở trang 180, Hawking tổng hợp mọi thứ:

“Tự tạo ra là lý do có cái gì đó hơn là không có gì, tại sao vũ trụ tồn tại, tại sao chúng ta tồn tại. Không cần thiết phải gọi Thượng Đế để thắp sáng mảnh giấy cảm ứng màu xanh và đưa vũ trụ vào hoạt động.”

Trong cuộc phỏng vấn với El Mundo, Hawking chia sẻ:

“Khi ai đó hỏi tôi Thượng Đế có tạo ra vũ trụ hay không, tôi nói với họ rằng câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả.

Thời gian không tồn tại trước Vụ Nổ Lớn (Big Bang), nên không có thời điểm mà Thượng Đế tạo ra vũ trụ. Nó cũng giống như việc hỏi đường đến nơi tận cùng của trái đất. Trái đất là một quả cầu, nó không có cạnh, vì vậy tìm kiếm nơi tận cùng là vô ích.”

Hawking không nói về các vấn đề thần học, ý kiến của Hawking về Thiên Chúa là một ý kiến khoa học. Vì các định luật vật lý có thể giải thích sự hình thành vũ trụ, không cần phải có một Đấng Tối cao để tạo ra nó.

Câu trả lời từ cộng đồng tôn giáo là gì?

Đúng như dự kiến, có một sự phản đối kịch liệt đến từ các nhà lãnh đạo tôn giáo, họ đưa ra những lời phản đối mạnh mẽ cho tuyên bố của Hawking rằng Thượng Đế không tạo ra vũ trụ.

Lập luận của họ yếu đuối, nhỏ nhặt, và thường cho thấy ít hoặc không có sự hiểu biết về khoa học. Họ thậm chí còn “lý luận cùn” khi nói rằng: “Thượng đế tồn tại bởi vì tôi nói vậy.”

Tổng giám mục Canterbury, tRowan Williams nói “Niềm tin vào Thượng đế… là niềm tin rằng có một người thông minh, tất cả hoạt động của mọi thứ cuối cùng đều phụ thuộc vào sự tồn tại của người đó. Vật lý một mình sẽ không giải quyết được câu hỏi tại sao có cái gì đó hơn là không có gì.”

Giáo sĩ Do Thái của Vương quốc Anh, Lord Jonathan Sacks, nói “Khoa học là giải thích. Tôn giáo là làm sáng tỏ. Kinh Thánh đơn giản là không quan tâm đến cách vũ trụ hình thành.”

Một số người cho rằng Hawking đã không bác bỏ sự tồn tại của Thiên Chúa, nhưng điều này cũng không có gì ngạc nhiên. Không ai có thể chứng minh được sự tồn tại của một đối tượng vô hình chỉ xuất hiện trong tư tưởng. Những gì mà Hawking đã làm là cho thấy vũ trụ vẫn có thể tồn tại mà không cần đến “ai đó” đưa mọi thứ vào hoạt động.

Những người khác nói rằng: “Bạn không thể có được một cái gì đó từ hư không, và tất cả mọi thứ phải có một nguyên nhân, và Thượng Đế là nguyên nhân đó”. Tôi không nghĩ rằng những nhà phê bình này thực sự đọc cuốn sách của Hawking, bởi vì ông đã giải thích những điểm này.

Thjere là một ấn phẩm Kitô giáo nhắm vào các nhà khoa học, tuyên bố rằng Thiên Chúa đơn giản chỉ là “quy luật của vũ trụ” khi các nhà vật lý hiểu chúng.

Một số người cũng chỉ ra rằng, lý thuyết dây và thuyết M không được chấp nhận bởi tất cả các nhà khoa học. Điều này đúng, nhưng điều đó không có nghĩa là Hawking sai. Nhiều nhà khoa học chấp nhận những học thuyết tiên tiến này, và thực tế là họ không bác bỏ chúng. Phương pháp luận của khoa học dựa trên việc xây dựng và thử nghiệm.

Tại sao tang lễ của Stephen Hawking lại diễn ra tại một nhà thờ?

Có 500 vị khách mời tại tang lễ của Stephen Hawking được tổ chức vào ngày 31 tháng 3 năm 2018 tại nhà thờ lớn St. Mary ở Cambridge, Anh. Mặc dù Hawking là một người vô thần, những đứa con của ông ấy, Lucy, Robert và Tim, đã chọn St Mary, nhà thờ của trường đại học Cambridge để nói lời chia tay của họ.

Gia đình đã chọn dịch vụ tang lễ của Giáo hội Anh thường được dành các nghiên cứu sinh lâu năm tại Đại học Cambridge (Hawking đã làm tốt nghiệp tại Đại học và là một giảng viên tại đây trong 52 năm). Khoảng 1000 người xếp hàng trên đường phố để chia buồn cùng gia đình ông.

Những người con chia sẻ: “Cuộc sống và công việc của cha chúng tôi có ý nghĩa đối với nhiều người, cả tôn giáo lẫn phi tôn giáo. Vì vậy, tang lễ sẽ vừa bao quát, vừa truyền thống, phản ánh bề rộng và sự đa dạng của cuộc đời ông ấy.”

Gia đình Hawking đã tổ chức một bữa ăn cuối tuần gồm ba món cho người vô gia cư tại Nhà thờ Methodist Wesley ở Cambridge phục vụ vào ngày lễ tang của ông ấy. Các bảng được trang trí bằng hoa với ghi chú: “Bữa trưa hôm nay là món quà từ Stephen…từ gia đình Hawking.”

Hawking được hỏa táng và một lễ tưởng niệm được tổ chức vào ngày 15 tháng 6 năm 2018. Tro cốt của ông đã được chôn cất tại Tu viện Westminster ở London, gần những tàn tích của nhà khoa học lsaac Newton nổi tiếng.

Hoa Sen Phật – Nguồn: owlcation.com

0 0 votes
Article Rating

1 thg 9, 2021

Ma y thần tướng

MA Y THẦN TƯỚNG

(Tập 1)

 

Xem qua thần tướng ma y

Biết  người thiện ác, biết tay gian tà

Biết trang phú quý  vinh hoa

Biết người hào kiệt vương gia thế nào

Biết người thọ yểu làm sao

Biết người mưu trí thấp cao trên đời

Biết người an lạc thảnh thơi

Biết người cùng khổ cả đời tân toan

 

¯¯¯

Người nào ngũ nhạc hân hoan

Chắc rằng quý tướng giàu sang trọn đời

Mắt xanh da ngọc tốt tươi

Bộ đi hòa hoãn ắt người phong lưu

Đàn ông túc trí đa mưu

Thiên đình rộng rãi mũi cao dọn rồng

Những người dựa bực tam công

Tam đình khoảng hượt đôi tròng mắt trong

Lưỡng quyền da ửng hồng hồng

Mặt tròn mũi nhọn ắt lòng thông minh

Người nào lòng rộng thinh thinh

Trong bàn tay có chỉ hình chữ xuyên

Người nào lòng dạ đảo điên

Bộ đi nết đứng không yên nữa giờ

Gái mà lòng dạ lẳng lơ

Chân mày rậm rạp ngọc cơ hồng hồng

Có chồng mà lại giết chồng

Hình đi như rắn bụng trung bửa giờ

Đàn ông hàm râu xơ xơ

Mặt mày méo xẹo khác cơ nhiều bề

Người nào bộ đi xàng xê

Mặt thì nhiều thịt lòng dê dạ cừu

Người nào tía lia như cừu

Lòng lang dạ độc oán cừu tư niên

Người nào cặp mắt đóng xuyên

Chân mày chữ bát dạ liền gian manh

Người nào tánh thiệt thông minh

Tròng đen trong trẻo thiên đình đóng cao

Người nào tròng trắng nháy sao

Cái miệng quai xách hỗn hào như tinh

Người nào tròng trắng phân minh

Tròng đen đen trạy khôn lanh hơn người

Gái nào chưa nói đã cười

Chưa đi đã chạy thiệt người gian dâm

Người nào nước da ngâm ngâm

Chân mày quá nhãn cái cằm tròn vo

Thiệt người rành rẽ văn nho

Trong lòng sáng láng khó dò tim can

Người nào chân mày đóng đang

Mũi cao miệng rộng khôn ngoan trong đời

Người nào mày ngang đóng khơi

Mắt sâu mũi trống cả đời không dư

Người nào mày đoạn mũi trư

Thiệt người cô độc môn dư một mình

Sơn căn đứt đoạn linh tinh

Ông bà để của mấy nghìn cũng tiêu

Anh em dầu có bao nhiêu

Ở gần chẳng đặng trôi xiêu xứ người

Mày giao mặt nám không tươi

Lấy nhơn làm oán vốn người xấu xa

Người nào mặt láng da ngà

Trai đôi ba vợ gái đôi ba chồng

Gái mà hai má hồng hồng

Con mắt điên đảo có chồng theo trai

Người nào mũi thấp mặt dài

Cặp mắt xé lẹ có ngay bao giờ

Trai mà tóc rối như tơ

Vỗ đầu bèm bẹp thất thơ cả  đời

Người nào tai phật miệng dơi

Nước da tươi nhuận thiệt người sống lâu

Người nào tươi mướt bộ râu

Dẫu nghèo cũng sướng trước sau trọn đời

Người nào thuở bé mặt tươi

Lớn lên u ám hay cười hay vui

Thiệt là tướng yểu không xuôi

Dẫu mà có sống nữa đời mồ côi

Người nào năm nhạc chói ngời

Chân mày đứt đoạn thiệt người phá gia

Người nào con mắt tà tà

Lỗ mũi vạy vọ số đà bốn mươi

Tướng mà như vậy những người

Học dầu giỏi lắm cả đời làm dân

Người nào mặt lớn mày ngần

Học tài thi đỗ dần dần chẳng sai

Người nào lộ xẻ môi dày

Tướng in như vậy nạn tai rất nhiều

Sớm mai chạy riết đến chiều

Những người như vậy làm nhiều không dư

Thượng đình ngắn hạ đình dư

Nhiều khi làm hại nhiều xừ làm nên

Dẫu mà cải số trời trên

Ví như sương tuyết nằm trên mặt trời

Hạ đình ngắn thượng đình dài

Ắt là tể tướng trọn đời gần vua

Dân mà như vậy không vừa

Ắt là sự nghiệp sánh vua sự giàu

Phát phì nhỏ tuổi lao đao

Ba mươi sắp xuống chia bâu chẳng Toàn

Phát phì mà lại phát quan

Ba mươi sắp xuống dở dang nhiều bề

Bốn mươi hình phát phê phê

Công danh nối gót hưởng bề hậu lai

Ốm mà nhan sắc tốt thay

Dẫu nghèo không cực hình hài chút nao

Già mà nhan sắc chẳng xàu

Ắt là cực khổ buổi đầu chẳng sai

Ốm mà thân thể chẳng phai

Hậu niên phát đạt hào tài hào quan

Chân mày dấu vạy như thoan

Ắt là học giỏi khôn ngoan giữa trần

Chân mày chữ nhất mặt gân

Sát thê chi tướng hại lần hào con

Râu ria đen trạy ngay bon

Chắc là phước đức nhờ con về già

Râu thưa quắn quắn lo xa

Hoe hoe đục đục lớn ra phong trần

Mắt xanh mày đóng cao mân

Thật người tánh xảo muôn phần thôngminh

Một mai dựa chốn triều đình

Mão vàng đai bạc tài lành chắng sai

Người nào hùng tướng vô tài

Không no đùi vế lỗ tai tối mò

Thiệt người tánh dữ hay lo

Ông bà dẫu để tiền kho không còn./.

Tác giả bài viết: Sưu Tầm

MA Y THẦN TƯỚNG

(Tập 2)

 

Hoang đàng e chuyện thị phi

Đọc pho thần tướng ma y giải buồn

Thấy lời đặt để rất thông

Diễn theo cuốn trước lời suông tiếng thường

Thánh hiền truyền lại mấy chương

Người mà dụng tướng trước nương lòng lành

Trai khôn lo học cho rành

Gái khôn lo tập cửi canh việc thường

Biết mùi đạo lý văn chương

Giữ lòng trung hiếu là phương trau mình

Trải xem mấy truyện mấy kinh

Dạy điều nhân nghĩa giữ gìn lễ nghi

Thấy người lâm chuyện hiểm nguy

Ra công giúp đỡ tùy nghi việc mình

Giữ lòng ngay thẳng tín thành

Thi ân báo nghĩa trời đành phụ sao

Giữ lòng đặng vậy mới là

Dẫu mà tướng xấu đổi ra tướng lành

Người nào ỷ sức khôn lanh

Đem lòng giận ác trời xanh hại liền

Dẫu mà tướng tốt như tiên

Đổi ra tướng xấu cũng liền theo sau

 

¯¯¯

Có người tròng mắt như sao

Ngoài vành trong trẻo sách nào cũng thông

Người nào gân trán hồng hồng

Có tài văn học bềnh bồng bốn phương

Người nào gân trán vàng vàng

Tiền muôn cũng hết bạc ngàn cũng tiêu

Đàn bà gương mặt buồn hiu

Có gân trên trán phá tiêu gia tài

Đàn ba tướng đi hàng hai

Thiếu niên lao khổ khắc hai đời chồng

Người nào lỗ mũi hồng hồng

Nút ruồi trên mũi nhiều chồng chẳng sai

Người nào mình hạc xương mai

Trong bàn tay đỏ tóc dài chấm chân

Thiệt là quý tướng hiền nhân

Ít nghèo ít cực sang hơn mọi người

Đàn bà cặp mắt tốt tươi

Môi son da phấn miệng cười có khoen

Tướng mà đặng vậy không hèn

Có chồng vinh quý quả nhiên chẳng lầm

Người nào khoen mắt thâm thâm

Bộ đi như nhảy lang tâm hơn người

Tướng khôn trật chín trật mười

Tóc mây dợn sóng mấy đời thua ai

Đàn ông văn vật có tài

Tóc quăn mũi nhọn thiên đình đóng cao

Người nào lòng dạ anh hào

Có xoáy trên trán mắt sao mày dài

Người nào đa võ có tài

Văn chương lỗi lạc trái tai có ngời

Người nào gia thất đổi dời

Bàn chân khuyết hủng ở nơi xứ người

Người nào bộ miệng như cười

Mũi rồng tai phật thiệt người sống lâu

Dẫu không có các có lầu

Trọn đời thong thả phong lưu với đời

Những người con mắt có ngời

Mày dài quá mắt miệng cười có duyên

Cả đời sung sướng như tiên

Có chồng có lộc có quyền giàu sang

Người nào cái mặt hiên ngang

Bộ đi tướng đứng đàng hoàng mày ngang

Dẫu không làm lớn trong làng

Cũng là cực phẩm triều đàng chẳng sai

Người nào mình hạc xương mai

Bàn tay đỏ chói có tài thông minh

Đàn bà được một tánh trinh

Đàn ông như vậy thông minh hơn người

Người nào có hai con ngươi

Thiệt người quý tướng trọn đời đế vương

Người nào mắt hí như lươn

Nước da sậm sậm hay lường thế gian

Cằm lèm lẹm trán ngang ngang

Chơn tóc mọc thấp gian nan nữa đời

Miệng cười môi tợ son tươi

Miệng ngậm có chữ  thiệt người tam công

Người mà trán rộng giọng đồng

Trán như xuyên tự vốn dòng công khanh

Thiếu niên sáng láng học hành

Phát danh rất sớm tài lành nỗi xa

Người nào con mắt tà tà

Răng hô môi trớt thiệt là nghèo khô

Người nào cườm cẳng tròn vo

Làm sao lớn cũng nhà to ruộng dài

Người nào mười ngón tay dài

Nước da tư nhuận tóc dài nhởn nhơ

Mắt sao má phấn da ngà

Gái mà đặng vậy thiệt là tướng sang

Dẫu mà không lấy chồng quan

Ở nơi cung điện vinh quang trọn đời

Trán thấp miệng méo mày lơi

Lỗ mũi trống hốc cả đời không dư

Người nào con mắt lừ đừ

Ấn đường tỏ rõ có hư bao giờ

Những người tuổi lúc đương thơ

Răng beo đầu nhọn thiệt là học hay

Lớn lên xa chạy cao bay

Dẫu không thi đỗ tài hay hơn người

Mày cao mắt rộng hay cười

Lòng to sáng láng trong đời thua ai

Đàn bà như vậy lạc loài

Chân mày đen trạy có hai đuôi dài

Tướng mà như vậy thẹn thùa

Thấy trai ngoài ngõ rượt đùa không chưng

Người nào tướng dữ tướng hung

Cái mặt méo xẹo hiếu trung bao giờ

Dẫu không tai nạn lúc tơ

Lớn lên đói rách thất thơ ngoài đàng

Người nào râu trổ vàng vàng

Răng hô mắt lé trong làng ít ưa

Người nào hàm răng thưa thưa

Hai môi mõng dánh thiệt vừa xão ngôn

Người nào tuồng mặt ám hôn

Tóc khô trán trợt hương thôn xa lìa

Đàn bà bộ miệng tía lia

Lẹm cằm tóc ít mấy đời sống lâu

Người nào chân mày như cao

Hàm răng đóng thấp cái đầu mũi cao

Đàn bà giọng nói khao khao

Tóc mây dợn sóng hỗn hào tinh yêu

Người nào gò má có triều

Cái cằm lẹm khuyết tóc nhiều ít nên

Người nào trán méo một bên

Mũi gãy tóc ít sống trên hai từng

Đàn ông mặt nhỏ lớn lưng

Cũng là yểu tướng thọ chừng bốn mươi

Người nào mày tóc tốt tươi

Trên trán có chữ thiệt người không ngoan

Đàn bà mắt chớp quá lang

Ửng đỏ gò má : mặt ngang miệng dài

Người nào khóe mắt chia hai

Dường như giời lụy cả đời không con

Mày giao tay đỏ tựa son

No đầy lại nhuyễn ngón tròn giàu sang

Bàn tay nước da khô khan

Thiếu niên sao khỏi gian nan nhọc nhằn

Đại tiểu mà ra một lần

Đàn bà như thế phong trần dâm ô

Đàn ông mà cặp mày rô

Râu mà loạn xị là đồ bất trung

 

¯¯¯

Xem đi xem lại cho cùng

Mấy bộ sách tướng tóm chung một lời

Cha sanh mẹ đẻ tốt tươi

Giữ điều nhân đức sánh người thần tiên

Ở cho tánh nết đặng hiền

Giữ toàn ba mối năm giềng cho xong

Dầu cho tướng phụng tướng rồng

Thiếu câu trung hiếu cũng không ra gì

Canh trường giở sách ma y

Lời thô tiếng kệch nghĩ suy ít hàng

Giúp vui chư vị đồng bang

Ngâm nga đêm vắng it trang giải buồn./.

Tác giả bài viết: Sưu Tầm

MA Y THẦN TƯỚNG

(Tập 3)

 

Luận xem văn sự con người

Phải hình quyền quý phải đời phong lưu

Có người trí hóa tài mưu

Có người bần tiện tư ưu đêm ngày

 

¯¯¯

Bàn chân đi đứng chẳng ngay

Trong bụng cũng vậy có hay thế nào

Con mắt chơn mày đóng cao

Mày sóc mày cáo hỗn hào lắm thay

Tai lừa tai ngựa hỡi bay

Dững đôi chân mày thế ấy cũng hư

Răng khít là răng thiềm thừ

Ở ăn độc địa thời chừ lo âu

Người nào trán vặn xoáy trâu

Thiên tinh là hiệu có đâu cho vừa

Đôi tròng trắng bạc quá ưa

Nam dâm nhơn phụ nữ hòa gian phu

Mõng môi cao mỏ hồ đồ

Hồng hồng con mắt giết chồng như chơi

Khao khao giọng thổ tiếng cười

Vân vân tóc trán là người khôn ngoan

Đêm ngày tư lự tân toan

Phỉnh ngưòi lấy của dỗ người lấy công

Người nào mắt phượng mũi rồng

Trán cao bằng phẳng cằm đồng nở nang

Trên cho cân dưới rõ ràng

Ấn quyền cũng có trào đàng có khi

Quý quyền dẫu chẳng làm chi

Hương thôn người cũng kỉnh vì làm trên

Người nào lỗ mũi hỉnh lên

Của xe chất lại một bên cũng nghèo

Chân nai rồi lại chân cheo

Bước cao bước thấp cũng đều nên ghê

Râu thời quắn quắn râu dê

Ở ăn bội bạc nhiều bề gian manh

Người nào quảng hượt thượng đình

Ấn quyền cũng có phẩm bình chất cao

Nhơn trung sâu tợ như đào

Thung dung trên thế anh hào mới đang

Thiện từ rải khắp nhân gian

Ai khôn khôn với ai ngoan ngoan cùng

Ấy nên một đấng anh hùng

Trên cân mày mặt dưới bằng đít trôn

Dầu mà lao khổ sầu tuôn

Mặt cũng tươi tốt như tuồng hân hoan

Nói ra là sự dở dang

Lưng thô mặt đục lòng lang bộn bàng

Dầu mình nằm trên đống vàng

Lâu mòn thời cũng một bàn tay không

Ra đi lưng bước cứng còng

Rùng vai lắc chuyển động trong tới ngoài

Là người bần tiện hình hài

Mãn đời thì cũng đi vay của người

Mở miệng chưa nói đã cười

Bất bình nhãn mục một đời lang vân

Người nào mắt phụng mũi lân

Mi trường quá mục mười phần tốt thay

Đã cân vừa chân vừa tay

Eo lưng thắt đáy bằng nay vững vàng

Ra đi chân bưóc khoan khoan

Chẳng giàu thì cũng làm quan nhưng là

Đầu mày mà lại dửng ra

Có gan có ruột gian tà vốn không

Gái mà da đỏ hồng hồng

Dài cằm rộng miệng có chồng lấy trai

Dầu mà lịch sự khoan thai

Tròng trắng trắng bạc tròng đen đen dầm

Quả là cẩu hạnh lang tâm

Con mắt thể ấy thời dâm chẳng lầm

Con người sân hận lương tâm

Phương viên diện mạo ngâm ngâm má đào

Trung trung chẳng thấp chẳng cao

Nói năng thủng thẳng mày giao cunghuyền

Mắt hẹp lại cao lưỡng quyền

Tai như tai phật lòng hiền sống lâu

Ai mà ăn ở hiểm sâu

Lưng dài vai rộng hay chau đôi mày

Nói rồi lại phủi hai tay

Thì mấy người ấy có tài là chi

Làm người lấy đó mà suy

Râu rìa lông ngực có khi phản thần

Người nào nhãn lộ bất bình

Dĩ ân báo oán là tình gian hung

Nam nhơn đa phát bần cùng

Nữ nhơn thiểu phát ai dùng làm chi

Ai mà môi đỏ da chì

Ấy  là chất phát vậy thì cũng nên

Người nào trán khuyết một bên

Thì lòng gian đã đâu nên trung bình

Làm người học lấy trong mình

Biết người mà lánh biết tình mà ưa

Nịnh thần là thấy hay chưa

Râu rẽ hàm én mắt thời láo liên

Dầu mà làm quan hay quân

Xảo ngôn sàm ngữ hại dân nhộn nhàng

Ai có ngũ lộ rõ ràng

Là tướng phú quý bạc vàng trên tay

Khổng đạo vô mao bằng nay

Bần cùng chi tướng tháng ngày tân toan

Anh hùng là tướng có gan

Ti hậu cho có mới trang anh hùng

Người nào mà cạn nhơn trung

Ở ai hại nấy có  dùng chi đâu

Tam nhủ là tướng công hầu

Tứ nhủ là báu đã giàu lại sang

Tiểu tiện nước chảy hai hàng

Rơi rơi hoa cải tựa dường mưa sa

Nhỏ thì ở cửa ở nhà

Lớn lên ở phủ ở tòa ở cung

Đừng dương cái thói tham lam

Ngũ nhạc cho có thì làm lớn thay

Đái ra một giọt chảy ngay

Bần cùng chi tướng tháng ngày lao đao

Hình dung thượng hạ măng mao

Trường thọ chi tướng khổ lao chi bần

Cho toàn ngũ đoản chi thân

Ngũ trường cũng tốt mười phần thêm xinh

Nhãn thanh quan thị bất bình

Láo liên con mắt gian tà ai đương

Xảo ngôn sàm ngữ đa phương

Thượng nghiêm bất thuận, hạ phường đệ huynh

Ai cùng ai cũng chẳng tin

Lấy đen làm trắng trong mình mới cam

Đòng xa tay đánh cong cong

Bất bình lưỡng mục thời làm xấu thô

Nam tà nữ tánh dâm ô

Lẽ nào nết cũng hồ đồ lắm thay

Co quắp tướng duỗi hai tay

Như vậy thì cũng nhiều ngày khó khăn

Tiếng eo éo khít hàm răng

Giận rồi mới nói nói  năng chau mày

Ác nhơn thêm thắt lắm thay

Độc từ kẻ ở chân tay trong nhà

Mặt thì coi trẻ như già

Lưu ly chi tướng gian tà lại đeo

Nằm như thỏ nằm như mèo

Cả đời thì cũng chịu nghèo không xong

Nằm như lân, nằm như hùm

Ngàn năm quý tướng mãn chung chi đời

Thánh hiền truyền hết mọi lời

Biết đời phước đức biết đời giàu sang

Nói như sấm cười như rang

Nam nhân vốn thiệt một trang anh hùng

Nói như sấm cười như rang

Nữ nhơn thế ấy thì  hoang cửa nhà

 

¯¯¯


28 thg 8, 2021

CẢM MẠO LÀ ĐẦU MỐI CỦA NHIỀU BỆNH MÃN TÍNH.

 CẢM MẠO LÀ ĐẦU MỐI CỦA NHIỀU BỆNH MÃN TÍNH.

*
Ngày mới vào y học, khi nói đến cảm mạo tôi thường không chú ý lắm. Cứ nghĩ nó đơn giản qua loa, nhiều lúc còn tặc lưỡi cảm ấy mà. Sau này học trên trung ương hội đông y lớp chuyên sâu, Thầy Vũ Xuân Quang giảng về cảm mạo. Câu đầu tiên thầy nói: "Bách bệnh do phong gây ra..."
Thầy lại nói: "Thầy thuốc bình thường hay coi thương cảm, thầy thuốc giỏi thì rất sợ cảm..."
Tôi vẫn thấy hoài nghi, thầm nghĩ: "Lớp chuyên sâu phải học những bệnh khó chữa chứ, sao lại học cả cảm mạo...?"
Đến bây giờ, mỗi lần bàn về y học tôi lại vẫn như nghe rõ tiếng thầy nhấn mạnh: "Bách bệnh do phong gây ra..." và thấy thật may mắn đươc nghe bài Thầy giảng và vô cùng biết ơn thầy !
Hôm nay con chia sẻ bài viết này thay cho nén hương thơm trước vong linh của Thầy. Cầu mong Thầy được về nơi Cưc lạc !
**
Viết về cảm mạo cho thật đầy đủ có thể phải một cuốn sách dày mới hết được. Ở bài viết này tôi chỉ đi sâu vào 2 hai dạng thường gặp và điển hình để dễ phổ cập đến những người không chuyên về y học cũng có thể tiêp thu và ứng dụng được vào việc phòng bệnh và chữa bệnh.

Cảm có chia ra phong hàn và phong nhiệt.

Cả 2 đều có triệu chứng chung là: Đau đầu, phát sốt, cứng gáy, ho, đau họng...
Khác nhau là:
Phong nhiêt thì khát nước, sợ nóng, tịt mũi...
Phong hàn thì không khát hoặc khát mà thích uống nước nóng; Sợ lạnh, nước mũi chảy dòng dòng...

Nguyên nhân cảm là do Phong tà xâm nhập vào cơ thể.


Bắt đầu đi qua huyệt Phong môn, thuộc kinh Bàng quang chạy 2 bên cột sống. Phong là gió, môn là cánh cửa (Phong môn là cửa của gió).
Tại sao sốt? Sốt là do tà khí và chính khí giao tranh. Tà khí muôn xâm nhập, chính khí thì đẩy ra.
Đau cứng cổ gáy: Là do cơ chế tự co cơ để đóng cửa lại.
Ho, chảy nước mũi hoặc tịt mũi, mất tiếng là do phế làm chủ bì mao, chủ âm thanh, khai khiếu ra mũi thông với họng nên khi phong tà phạm bì mao tức là phạm phế.
Bệnh cảm mới mắc phải, nếu giải cảm kịp thời bệnh sẽ nhanh hết và không để lại hệ quả. Ngược lại, nếu không kịp thời và giải hết phong tà sẽ đi sâu vào bên trong, gọi là cảm nhập lý thành các chứng: đau bụng tiêu chảy, ho, có thể dẫn tới viêm phổi...
Cảm lạnh không chữa kịp thời, bệnh nặng có thể dẫn đên tử vong rất nhanh...

Hệ quả của cảm:

Đây là vấn đề ít được quan tâm một cách thấu đáo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do nhịp sống của thời đại công nghiệp vốn khẩn trương, lại có nhiều loại thuốc hạ sốt rất nhanh... Trong khi chúng ta chưa ý thức được hết về hệ quả của nó nên thường chủ quan, dùng thuôc tây lại nhanh.
Cứ nghĩ hết sốt là hết cảm. Không biết rằng các bệnh viêm xoang, viêm mũi, ho hen, đường ruột mãn tính, đau đầu kinh niên..., đau bụng kinh, rối loạn kinh nguyệt... Và những rối loạn của tạng phủ gây ra không biết bao nhiêu bệnh nặng khác lại có nguyên nhân từ cảm mạo mà thành...!

Về nguyên tắc, chữa cảm phải giải cảm triệt để bằng cách làm ra mồ hôi, Đông y gọi là hãn pháp.

Có nhiều cách phát hãn (làm ra mồ hôi). Đối với chứng cảm mới mắc như sốt, ho mất tiếng, đau vai gáy không có mồ hôi,
Cách tốt nhất là nấu một nồi nươc xông, rồi xông cho ra mồ hôi. Cách này vừa nhanh vừa giải cảm triệt để. Hoặc có thể đến các phòng dịch vụ xông hơi để giải cảm... Nếu bị lâu ngày, có thể phải xông nhiều lần.

Chống chỉ định:

Cảm mà đã ra mồ hôi thì cấm xông vì khi ấy mồ hôi sẽ ra quá nhiều, sẽ biến chứng nguy hiểm...
Cách khác: Cạo gió hay đánh cảm cũng rất tốt.

Cách đánh cảm:

- Đối với cảm nhiệt nhanh nhất là đánh cảm bằng trầu không và dầu hoả.

Cách làm như sau: Đổ một ít dầu hoả ra bát rồi vò lá trầu không, chấm vào dầu hoả đánh dọc 2 bên sống lưng (đánh xuôi từ trên xuống). Đánh từ vùng huyệt Phong trì (chỗ hõm sau gáy) xuống đến hông. Rồi quay lại đánh tiếp như cũ lần nữa. Đánh thấy càng đỏ càng hiệu quả. Thông thường đánh đến đâu bệnh thấy nhẹ đến đó.
Rồi đánh 2 cung lông mày: đánh từ đầu mày đến thái dương. Rồi qua trước tai xuống cằm. Đánh nhẹ nhàng từ vùng Ấn đường xuống Sơn căn. Đánh đến khi bệnh nhân hết sốt hoặc bớt sốt nhiều là được.
Có người đánh một lần là hết. Có trương hơp bệnh nhân đỡ đươc 1 hoặc 2 h lại sốt lại, ta lại đánh tiếp như trên.
Nếu không có dầu hoả thì dùng quả chanh tươi cắt đôi ra rồi đánh như trên cũng rất tốt.

- Đối với cảm lạnh thì đánh bằng dầu nóng hoăc cao Sao vàng hay cao Bạch hổ.

Cách đánh như nhau. Rồi dùng điếu ngải cứu hơ vào vùng huyệt Phong trì, Phong môn, Phế du.
Nếu không biết chính xác huyệt thì cứ hơ ngải vào vùng cổ gáy là được...

- Cảm mãn tính: Đây là chứng bệnh của thời nay.

Khi cảm không được giải, Phong tà sẽ lưu lại ở bì phu. Ta thấy nhiều người vẫn than rằng hơi tí là cảm. Có người hàng chục năm không diện được áo dài vì hơi lạnh một tý là cảm, trong người lúc nào cũng có thuốc hạ sốt, thuốc ho...
Tại sao vậy ? Vì Phong tà còn lưu ở trong người nên cứ gặp gió là bị vì theo thuyết Đồng khí tương cầu (đồng khí thì tìm về với nhau).
Phong sẽ tìm đến phong khác nào như con chim mồi luôn nằm sẵn ở đó. Lại thêm hiện nay bị nhiễm lạnh và gió của điều hoà nhiệt độ (phong nhân tạo) nên bệnh cứ từ năm này qua năm khác, dương khí mất dần (hoả mất dần) cho nên thấy chân tay thường lạnh đăc biệt là bàn chân.
Mọi chuyện băt đầu từ đây. Vì khi hoả suy thì tỳ dương không đủ không vận hoá được thuỷ cốc (cơm nước) dẫn đến kém ăn, ăn không tiêu, đau dạ dày... Tỳ suy thì không nuôi được phế (tỳ thổ sinh phế kim) phế kém thì chân lông sơ hở lại dễ mắc cảm mạo (phế khí chủ bì mao).
Phế khai khiếu ra mũi thông với họng. Các bệnh viêm xoang, viêm mũi, viêm họng mãn tính, viêm phế quản đều ít nhiều có nguyên nhân từ đây. Tôi sẽ trình bày cụ thể từngt bệnh ở một bài khác.
Ở bài này tôi chỉ chia sẻ tổng thể và khái quát mong mọi người lưu tâm.
Cần lưu ý một điểm nữa là khi bàn chân lạnh thì toàn bộ cơ thể sẽ bị lạnh theo.
Vì bàn chân cũng phản chiếu toàn bộ nội tang cơ thể. Cho nên ta thấy trẻ em về mùa lạnh không đi tất se dễ bị viêm đường hô hấp. Người lớn cũng vậy.
Xem đồ hình phản chiếu nội tạng trên bàn chân của giáo sư Bùi quốc Châu...
Còn rât nhiều điều cần bàn trong vấn đề này nhưng để dịp khác, chúng ta thảo luận...
***

Sau đây là cách khắc phục hệ quả của cảm mãn tính dẫn đên cơ thể bị lạnh và phát sinh các bệnh trên:

Hàng ngày tốt nhất là dùng ngải cứu hơ ấm 2 bàn chân. Rồi hơ 2 bên cột sống từ dưới lên đến cổ gáy. Hơ thấy người âm ấm lên là đạt. Người bệnh lâu ngày có thể phải hơ hàng tháng. Rồi thỉnh thoảng phải hơ nhắc lại...
Nhiều học viên diện chẩn sau khi áp dụng cách này cho bản thân và người nhà đều mang lại hiệu quả như: ngủ ngon, khoẻ người, huyết áp được nâng lên (đối với người huyết áp thấp);
Ăn ngon, các bệnh mãn tính như viêm xoang, mũi họng, viêm phế quản, thoái hoá đốt sống... được cải thiện. Có người gần như khỏi hẳn.
Trên đây là bài viết chia sẻ với cộng đồng qua kinh nghiệm của tôi sau 30 năm chũa bệnh bằng Đông y và Diện chẩn. Tất nhiên, còn nhiều hạn chế, mong mọi người bổ khuyết...!
LY. Đồng Xuân Toán.
#cam, #cammao, #chuabenhbangmaysaytoc