Một bác sĩ tim mạch nói rằng, nếu mỗi người đọc được thông tin này mà chia sẻ cho 10 người biết thì chúng ta sẽ cứu được ít nhất 1 người:
Cơn đau Tim và NƯỚC !
Khi bạn đứng, cơ thể giữ nước ở phần dưới của cơ thể, khiến chân bạn
sưng lên. Khi bạn nằm xuống, cơ thể hạ xuống thấp hơn, do đó, thận thải
nước dễ dàng hơn, độc tố cũng dễ dàng loại bỏ hơn.
RẤT QUAN TRỌNG, xin hãy ghi nhớ:
- 2 ly nước sau khi thức dậy - giúp kích hoạt các cơ quan nội tạng
- 1 ly nước 30 phút trước bữa ăn - giúp tiêu hóa
- 1 ly nước trước khi tắm - giúp giảm huyết áp
- 1 ly nước trước khi đi ngủ - tránh đột quỵ hoặc đau tim.
Kết quả một số công trình nghiên cứu cho thấy trước khi đi ngủ, uống
một cốc nước có thể giúp phòng ngừa chứng tai biến mạch máu não.
Trong thực tế, những trường hợp tai biến mạch máu não thường xảy ra vào
sáng sớm. Sau một đêm dài cơ thể không được cung cấp nước, máu trở nên
đặc hơn, và đây là một trong những nguyên nhân dễ dẫn đến tai biến mạch
máu não.
Trong một ngày, máu có lúc đặc lúc loãng, đồng thời có
một quy luật nhất định. Buổi sáng, từ 4 giờ đến 8 giờ, là lúc máu đông
đặc nhất, sau đó dần dần loãng ra, đến khoảng 12 giờ đêm là thời điểm
loãng nhất, rồi dần dần đặc lại, và đến buổi sáng hôm sau lại lên đến
đỉnh cao.
Vì vậy, mỗi chúng ta, nhất là những người lớn tuổi,
buổi tối trước khi đi ngủ nên uống khoảng 200 ml nước (chừng một cốc),
thì sáng ngủ dậy, không những máu không bị đặc mà còn loãng ra.
Các chuyên gia y học cũng khuyên rằng, buổi tối trước khi đi ngủ uống
nước khiến cho máu loãng ra, có lợi cho sự tuần hoàn của mạch máu, giúp
phòng chống tai biến mạch máu não.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tai biến mạch máu não, sự đông đặc của máu tăng lên chỉ là một trong
những nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, có thể khẳng định thói quen uống
nước trước khi đi ngủ có tác dụng nhất định đối với việc phòng chống tai
biến mạch máu não.
LÀM SAO ĐỂ SỐNG QUA CƠN ĐAU TIM KHI BẠN Ở 1 MÌNH
Người bệnh khi lên cơn đau tim thì tim họ sẽ đập loạn nhịp, yếu. Sau đó, họ cảm thấy choáng, uể oải.
Khi bắt đầu cảm thấy như thế, thì chỉ còn 10 giây nữa họ sẽ ngất.
Tuy nhiên người bệnh có thể tự giúp mình bằng cách ngay lập tức ho rất
mạnh, rất dài và rất sâu (như khạc đờm từ sâu trong ngực). Đồng thời,
trước và xen kẽ mỗi cơn ho người bệnh hít 1 hơi thật sâu.
Người bệnh cần lặp lại hít thở sâu và cơn ho như trên mỗi 2s,
chỉ dừng lại cho đến khi cảm thấy tim đập trở lại bình thường và người có thể giúp đỡ đến.
Hít thở sâu giúp cho oxy vào phổi nhiều hơn bình thường và mỗi cơn ho
dài, mạnh, sâu giúp bóp mạnh quả tim làm cho máu lưu thông.
1 bác sĩ tim mạch nói rằng, nếu mỗi người đọc được thông tin này
mà chia sẻ cho 10 người biết thì chúng ta sẽ cứu được ít nhất 1 người.
Xin vui lòng chia sẻ!
Nguồn Dr Azhar Sheikh
(copy từ nhà của BS Tuan Nguyen)
Chú ý: Những bài thuốc ở đây chỉ có tính chất tham khảo. Khi sử dụng phải tham vấn ý kiến bác sỹ.
22 thg 1, 2014
8 thg 1, 2014
Tiềm năng của con người - Chương 22
CHƯƠNG 22
TIỀM NĂNG CỦA CON NGƯỜI
Như trên, chúng ta đã thấy rằng luật nhân quả mang tính liên
tục và luôn có sự tương tác, kết hợp giữa nhiều yếu tố phức tạp với nhau. Nói về
tính chất liên tục của luật nhân quả thì mỗi một sự việc ta đã làm trong quá khứ
đều tạo ra một nghiệp nhân nhất định và liên tục tiến đến gần hơn thời điểm kết
quả của nó. Đồng thời, mỗi một hành vi ta đang làm trong hiện tại lại tiếp tục
tạo ra nghiệp nhân để hình thành những kết quả trong tương lai. Và như vậy,
dòng nhân quả cứ trôi chảy tương tục không có bất cứ một thời điểm nào gián đoạn.
Mỗi một thời điểm bất kỳ trong đời sống của chúng ta đều là thời điểm gieo nhân
và gặt quả. Hay nói cách khác, khi ta vẫn còn trong vòng sinh tử luân hồi thì mọi
tư tưởng, hành vi của ta đều không thể ra ngoài sự chi phối liên tục của luật
nhân quả.
Chính điều này đã dẫn đến việc có nhiều khuynh hướng trái
ngược nhau có thể đồng thời xuất hiện và tạo nên một sự xung đột bên trong tâm
hồn của một người.
Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh
hướng về năng khiếu hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những
kinh nghiệm trong kiếp trước. Chẳng hạn như một người kia có những khuynh hướng
về âm nhạc đã được tích lũy trong một kiếp trước, nhưng đồng thời cũng có
khuynh hướng về ngành sư phạm từ một kiếp trước nữa. Thế là người này có cả hai
khuynh hướng về hai ngành khác nhau là âm nhạc và giáo dục.
Những khuynh hướng khác biệt này gây ra một sự xung đột
trong tâm hồn, khi người này buộc phải chọn lấy một nghề duy nhất. Ông sẽ làm
nhạc sĩ hay giáo sư? Trong nhiều năm, ông bị giày vò bởi một sự lưỡng lự phân
vân, không biết chọn lấy nghề nào. Sau cùng sự xung đột ngấm ngầm này phải được
giải quyết bằng cách dung hòa cả hai khuynh hướng, hoặc phải từ bỏ một nghề và
chỉ chọn lấy một nghề. Sự chọn lựa này đôi khi có thể là tùy theo ý muốn của
đương sự, nhưng đôi khi cũng phải phụ thuộc vào hoàn cảnh hay các điều kiện cụ
thể, chẳng hạn như nhu cầu tài chánh.
Còn có một sự xung đột khó khăn hơn nữa là khi đương sự chưa
trừ bỏ được một tật xấu cũ. Chẳng hạn, một người có thói khinh ngạo từ kiếp trước,
và trong kiếp sống đó đã từng lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với người
khác. Trong một kiếp sau đó, người này phải đầu
thai làm một đứa trẻ tàn tật sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo
của ông đã phải nhận lãnh quả báo, và ông đã bắt đầu có thái độ khoan dung, ôn
hòa hơn đối với mọi người. Nhưng thói khinh ngạo trong quá khứ vẫn chưa trừ bỏ
hoàn toàn và hãy còn biểu lộ một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai
khuynh hướng trái ngược nhau trong tâm tính. Khi thì ông có thái độ khinh ngạo,
khi thì có lòng khoan dung.
Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến
tình thương nhân loại thì ông cố gắng diệt trừ thói khinh ngạo còn tiềm ẩn
trong lòng.
Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn đề này. Các
tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như trên, mà dưới đây
là một trường hợp rõ rệt nhất.
Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược nhau, khi thì
khép chặt, cách biệt, lạnh lùng; khi thì lại rất hồn nhiên, cởi mở. Theo một cuộc
soi kiếp cho người này thì điều đó có nguyên nhân từ hai loại kinh nghiệm khác
hẳn nhau trong quá khứ. Trong một kiếp trước, ông là một tu sĩ thuộc một dòng
tu kín của Anh quốc, và chính kiếp sống này đã tạo cho ông một tâm hồn khép chặt
và cách biệt. Trong một kiếp trước nữa, ông là người tình nguyện tùng chinh
trong cuộc Thánh chiến thời Trung Cổ; và kiếp
đó đã giúp ông có tâm hồn cởi mở, yêu đời.
Sự trái ngược đó thường làm cho mọi người xa lánh ông, vì họ
thấy khó hiểu được vì sao một người lại có tính khí thất thường như thế; mới
hôm qua vừa vui vẻ hồn nhiên, nay đã tỏ ra thật lạnh lùng cách biệt!
Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ người Ý hồi
thế kỷ 17 tên là Pierre Claver, đã hy sinh tận tụy suốt đời để phụng sự
những nô lệ da đen bị mua về từ châu Phi, thường bị dân bản địa ngược đãi và đối
xử tàn nhẫn. Vị tu sĩ này thường khuyên những người da đen hãy nhẫn nhịn và cố
gắng làm nhiều việc tốt để có một tương lai tốt đẹp hơn. Ông Huxley nói:
- Lời khuyên đó có vẻ như không đúng chỗ, nhưng biết đâu vị
tu sĩ ấy có lý, vì cho dù ở vào hoàn cảnh nào con người cũng luôn cần phải biết
chuộc lại những lỗi lầm trong quá khứ và hướng đến xây dựng một tương lai tốt đẹp
hơn.
Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người khác đối với
ta tuy là quả báo xấu của những hành vi bất thiện trong quá khứ, nhưng cũng có
thể được xem như những cơ hội nhắc nhở chúng ta phải biết tránh xa những hành
vi xấu ác và cố gắng nhiều hơn trong việc thực hiện các điều thiện.
Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề rất quan trọng là đừng
bao giờ nuôi cái ảo tưởng rằng ta là người hoàn toàn trong sạch và vô tội. Đa số
chúng ta khi lâm vào những nghịch cảnh hay phải chịu đựng những nỗi đau khổ bất
công thường nghĩ rằng mình là oan ức, vô tội và phải chịu thiệt thòi, chứ không
nghĩ rằng đó là do ta đã từng gây ra những nỗi bất công và đau khổ cho kẻ khác.
Chúng ta luôn tưởng rằng mình tốt lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn
có từ nhiều kiếp trong mỗi con người.
Nhưng còn một lý do khác nữa, đó là sự lãng quên, một định
luật tự nhiên đã khiến ta quên đi mọi sai lầm và tội lỗi trong quá khứ. Một người
đàn bà nọ phàn nàn:
- Tôi luôn đối xử tốt lành với tất cả mọi người; nhưng người
khác đối xử với tôi quá tệ bạc. Con người thật là bạc bẽo và vô ơn!
Ông Cayce đã trả lời bà ấy rằng:
- Phải, bà đã hết sức tốt lành và lương thiện, nhưng đó là
những biểu hiện trong kiếp này, bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất bà
không tốt đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động
tốt lành và vị tha. Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới có đây thôi. Trong một
kiếp trước, bà là người có một sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà nhưng tâm địa rất độc ác! Cho nên, ngày nay bà chỉ
gặt hái đúng những gì bà đã gieo trồng trong kiếp trước. Việc bà bị đối xử độc
ác và bất công không phải là vô cớ, mà chính là quả báo của những hành vi độc
ác mà bà đã gây ra đối với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm quả ngọt suốt đời,
nhưng bà chỉ hái lấy gai nhọn và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trồng
trong kiếp trước. Mùa gặt sau sẽ đem lại cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà
đã gieo trồng trong kiếp này. Trong khi chờ đợi, bà hãy vui lòng nhận lãnh những
quả đắng và gai nhọn, nhưng đừng nên thối chí và hãy tiếp tục làm điều thiện một
cách can đảm và đầy tin tưởng...
Những sự khổ đau và nghịch cảnh trong đời đều có thể xem như
những cơ hội thử thách và rèn luyện tánh tình, cho dù đó là những tai ách bên
ngoài như chiến tranh, dịch lệ, động đất, bão lụt... hoặc là những mối xung đột
ngấm ngầm trong tâm hồn.
Chỉ khi nào khoa tâm lý học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau
khổ đắng cay, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa nhất định
trong việc giúp con người tiến bộ nhiều hơn trên con đường hướng thượng thì
ngành học thuật này mới có thể được xem là đã tiến được một bước tiến lớn.
Bí quyết đào tạo khả năng - Chương 21
CHƯƠNG 21
BÍ QUYẾT ĐÀO TẠO KHẢ NĂNG
Những tiết lộ của ông Cayce về khả năng của con người và sự
phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này sang kiếp khác có ảnh hưởng rất
sâu xa về phương diện thực tế. Trước hết, điều này cho ta thấy được những triển
vọng vô hạn về sự nỗ lực vươn lên của con người và vai trò chủ động của mỗi cá
nhân trong sự hoàn thiện chính mình.
Theo cách nhận thức này thì điều tất nhiên là năng lực và đức
tánh của mỗi người đều hoàn toàn tùy thuộc vào những cố gắng mà người ấy đã thực
hiện trong quá khứ và đã tích lũy trong kho tàng tâm thức. Nhưng điều này cũng
đúng với những khả năng của mỗi người trong tương lai. Vì cũng như những khả
năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ quá khứ, thì những khả
năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng phải là do những cố gắng trau giồi, tu dưỡng
của ta trong hiện tại.
Vì thế, những công sức, thời gian và sự khó nhọc mà chúng ta
đang bỏ ra hôm nay sẽ không bao giờ mất đi, mà chắc chắn sẽ mang lại kết quả
tương xứng cho ta trong những kiếp tương lai.
Trên thế gian này luôn có hàng trăm nghìn người dành suốt cuộc
đời để âm thầm cố gắng theo đuổi một chí hướng nào đó, mặc dầu biết chắc rằng
không thực hiện được. Xét theo lối thường tình thì đó thật là một việc đáng buồn
và vô ích. Nhưng sự cố gắng của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nếu
ta nhìn vấn đề từ góc độ của thuyết nhân quả luân hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà,
có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về một cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc sẽ
được khen tặng và biểu dương trên những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên trong
lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thực vật học,
để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến thức
sâu rộng về ngành này và giúp ông ta trở thành một nhà trồng trọt trứ danh hay
một nhà thực vật học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng
tuổi đang tập vẽ tranh, không chỉ là đề tài chế giễu của bạn bè thân quyến
trong gia đình như người ta nhìn thấy, mà
chính là những bước đầu tiên trên con đường hướng đến một trình độ nghệ thuật
cao hơn và chắc chắn sẽ giúp cô trở thành một họa sĩ tài danh vào một kiếp nào
đó trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy
đàn dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách âm thầm, không tên tuổi. Với thời
gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc
sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu biết rằng mình đang dấn bước
trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai.
Nói tóm lại, theo thuyết luân hồi nhân quả thì không có một
sự cố gắng nào là mất đi. Nếu luật nhân quả luôn tác động một cách khách quan
và chính xác để hình thành những quả báo tương xứng cho những hành vi bất
chính, thì nó cũng mang lại phần thưởng xứng đáng cho những ai biết nỗ lực xây
dựng.
Nếu chúng ta thật sự tin tưởng nơi điều rất quan trọng này
thì chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi
qua, chúng ta đều đang tạo dựng tương lai của chính mình. Cái tương lai đó được
tốt đẹp hay không là tùy nơi những cố gắng tốt lành của ta trong hiện tại, và nếu
chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất phù du giả tạm của cuộc đời trần thế thì chắc chắn ta sẽ
không thể mong đợi có một tương lai huy hoàn xán lạn.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối
cùng của đời người là một giai đoạn bất lực và vô dụng, chỉ có thể nghỉ ngơi,
an phận và không làm được gì cả. “Tuổi già” hiểu như thế là một sự bi quan và
tiêu cực.
Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ cổ Ai Cập
cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một trăm
tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được
lành mạnh trong sạch giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí khi tuổi già
họ cũng không đến nỗi run rẩy lụm cụm.
Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bệnh
học (Psychosomatique) cũng khám phá rằng sự già nua một phần lớn do bởi
một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó người ta tự nghĩ rằng mình đã là một
người vô ích, vô dụng cho xã hội, và đã đến lúc cần phải được thay thế bởi những
người trẻ. Sở dĩ họ có thái độ đó là bởi vì họ quan niệm theo “chiều ngang” về
cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với những kẻ khác trên cùng
bình diện thời gian và không gian.
Nhưng theo thuyết luân hồi nhân quả thì quan niệm đúng thật
về cuộc đời phải là một quan niệm theo “chiều dọc”. Tự so sánh mình với những
người trẻ tuổi hơn không những là một điều vô lý, mà còn là vô ích vì chúng ta
chỉ hoạt động để tự vươn mình và hoàn thiện chính mình, sự tiến bộ của chúng ta
không phải là sự tương đối so với kẻ khác, mà là sự so sánh với chính bản thân
mình qua từng thời điểm.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người
ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại.
Sự ganh tỵ chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không
ganh tỵ với ai cả. Mỗi người đều tự chịu trách nhiệm về những gì mình làm và
không liên quan gì đến sự tốt đẹp hay xấu xa của người khác.
Dầu sao, nói một cách tích cực thì người già không bao giờ
nên tự xem mình như một phế nhân bên lề xã hội. Trái lại, chính trong sự lắng đọng
và tĩnh lặng của độ tuổi xế chiều mà ta càng nên dành tất cả thời gian còn lại
để trau dồi và tu dưỡng tâm tính, như sự chuẩn bị tích cực nhất trước khi bước
sang một đời sống khác, và nỗ lực học hỏi những điều cao cả trong đời sống mà
trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình mà ta đã không có thời
gian để theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn.
Nếu một người già có thể ý thức và thực hiện được như vậy,
người ấy sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh của mình trong kiếp sau,
thay vì chỉ sống những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị cuối cùng trước khi chấm dứt
đời sống. Chỉ xét riêng về điểm này không thôi, rõ ràng quan điểm luân hồi nhân
quả đã có thể mang lại cho ta một sức sống mới và một niềm vui sống vô biên
trong lúc tuổi già mà những ai có cái nhìn giới hạn đời sống trong một kiếp này
thôi sẽ không có được.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng,
chúng ta nên sống một cách tích cực và nỗ lực xây dựng cho đến giây phút cuối
cùng của đời ta. Dưới đây là một vài đoạn rất có ý nghĩa đã được ghi lại:
- Anh hãy sống điều độ trong tất cả mọi việc, không nên làm
bất cứ điều gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi một cách dễ
dàng. Nhưng điều quan trọng hơn là anh sẽ phải sống cách nào để xứng đáng với
tuổi thọ đó. Anh làm được những gì cho người khác? Nếu anh không làm được gì để
giúp đỡ người khác, thì sự sống của anh chẳng có ý nghĩa gì khác hơn là chỉ làm
chật đất!
Hỏi: Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc
tuổi già?
Đáp: Cô hãy tự chuẩn bị ngay từ lúc này, rồi
tuổi già sẽ giúp cho cô khôn ngoan già dặn hơn nữa. Hãy tỏ ra dịu dàng, khả ái và biết thương yêu mọi người.
Như thế, tâm hồn cô sẽ được trẻ trung mãi
mãi...
Hỏi: Tôi phải làm gì để không cảm thấy cô đơn
khi tuổi già sắp đến?
Đáp: Anh hãy bắt tay ngay vào một việc gì đó để
giúp đỡ người khác. Hãy làm cho người khác được vui vẻ hạnh phúc, và hãy tự
quên mình để giúp đỡ mọi người quanh ta. Mối liên hệ được tạo ra giữa cá nhân
và cộng đồng sẽ giúp anh không còn sợ sệt lo âu về những gì có thể xảy đến cho
mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn.
Hỏi: Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng
và tìm thấy sự an tịnh?
Đáp: Anh hãy tận tình giúp đỡ người khác. Hãy
quyết định mỗi ngày phải làm một điều thiện nào đó, cho dù rất nhỏ, hoặc nâng đỡ
cho những ai cần đến mình, cho dù đó là người chưa quen biết. Chẳng hạn, anh có
thể viếng thăm một người bệnh và trò chuyện an ủi họ. Sự quan tâm thực sự đến
người khác sẽ giúp anh thấy trong lòng yên ổn, không có gì cần phải thắc mắc,
nghĩ ngợi, lo âu.
Như vậy đời sống của chúng ta mới trở nên thực sự có ý nghĩa
và bất cứ lúc nào ta cũng biết chắc rằng mình đang tích lũy được một điều gì đó
tốt đẹp hơn cho những kiếp sống tương lai. Hiểu
được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với kẻ khác, vì sự
ganh tị là một điều vô ích, không mang đến cho ta bất cứ kết quả tốt đẹp nào.
Triết gia Emerson nói: “Sẽ có lúc người ta nhận định rằng
thói ganh tị là do sự ngu dốt mà ra.”
Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rõ nhất khi ta hiểu
và tin vào luật nhân quả. Những kẻ ganh tị là những người không biết rằng bất cứ
điều gì người khác làm được ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác
có được, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh, v.v... ta cũng
có thể có được, chỉ cần ta thực sự cố gắng làm những việc tốt lành để gieo nhân
mà thôi. Kết quả tốt đẹp chắc chắn sẽ tự nó tìm đến.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả
trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganini. Người ta thuật lại rằng nhạc
sĩ này có lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng
ngày ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được ra tù, ông
trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn tuyệt diệu hơn trước,
làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông.
Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó
khăn nhất thì ông bèn cắt đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo
đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian hai
năm ngồi tù. Việc bị giam cầm là một điều chướng ngại khó khăn và là một nghịch
cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách tích cực chứ không thối chí
hay thất vọng.
Ngày nào con người còn sống giữa thế gian thì chắc chắn vẫn
còn có những nghịch cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để cho
nghịch cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta điêu đứng khổ sở; mà trái lại, ngay trong những
nghịch cảnh chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niềm hy vọng và lạc quan.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể
chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế chính là ta đang
xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.
Phương châm trong việc chọn nghề - Chương 20
CHƯƠNG 20
PHƯƠNG CHÂM TRONG VIỆC CHỌN NGHỀ
Những câu chuyện về các khuynh hướng nghề nghiệp trong các tập
hồ sơ Cayce có thể làm cho người sưu tầm khảo cứu không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi.
Trước hết, sự khởi đầu nghề nghiệp của một cá nhân là một vấn đề làm cho người
ta phải thắc mắc khi cố gắng tìm hiểu cho đến tận những động cơ thúc đẩy ban đầu.
Điều đó có nghĩa là, nếu quả thật có các tiền kiếp, thì khi một con người lần đầu
tiên đến với một nghề nghiệp nào đó, họ đã chịu sự thúc đẩy của những động lực
nào? Tại sao họ lại chọn một ngành hoạt động này mà không phải là một ngành hoạt
động khác? Nếu tất cả mọi con người đều có bản chất bình đẳng như nhau thì tại
sao có người lại hướng về nông nghiệp, có người lại chọn ngành thương mại, người
khác lại hướng về âm nhạc, và người khác nữa lại chọn ngành toán học? Như vậy,
phải chăng trong mỗi con người đều có một động
lực tế nhị thuộc về cá tính, đã thúc đẩy họ chọn lựa những ngành hoạt động khác
nhau? Và nếu quả như thế thì nguyên nhân tối sơ nào đã tạo ra cái cá tính đó,
và nó biểu lộ ra bằng cách nào?
Trong những hồ sơ Cayce, không có sự giải đáp rõ ràng
những câu hỏi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá hoàn chỉnh về một điểm
khác là nguyên nhân nào làm cho một người phải thay đổi từ một nghề nghiệp này
sang một nghề nghiệp khác.
Người ta tìm thấy trong các hồ sơ Cayce có nhiều trường
hợp thay nghề đổi nghiệp như vậy, và sự phân tách các tài liệu đó chỉ ra rằng sự
thay đổi ấy thường căn cứ trên hai yếu tố căn bản là do lòng ham thích hoặc do
luật nhân quả.
Trong nhiều trường hợp đã kể trên, chúng ta thấy rằng lòng
ham thích cũng có một sức mạnh đáng kể trong việc gây nhân tạo quả. Một người
có thể bắt đầu nảy sinh ý muốn có một khả năng hay một đức tính vào khi họ tiếp
xúc với một người khác có cái khả năng hay đức tính đó. Sức mạnh của ý muốn đó
thúc đẩy một cá nhân luôn có sự cố gắng trải qua nhiều kiếp để phát triển khả
năng hoặc đức tính mà mình mong muốn.
Đôi khi, lòng ham muốn không phải do ảnh hưởng của một người
nào, mà vì đương sự cảm thấy bất lực trước một
tình trạng nguy cấp mà vì thiếu khả năng cần thiết nên không thể giải cứu người
khác hay làm được điều mình muốn làm.
Cho dù với nguyên nhân sinh khởi như thế nào, lòng ham muốn
dường như vẫn luôn là một yếu tố quan trọng quyết định khuynh hướng của mỗi con
người. Lòng ham muốn đó thường tăng trưởng dần dần và nhắm đến những mục đích
ngày càng rõ rệt hơn cho đến khi đủ để bắt đầu phát triển một khía cạnh mới
trong những năng khiếu tự nhiên của một cá nhân.
Có lẽ phải trải qua rất nhiều kiếp sống con người mới có thể
hoàn toàn thực hiện một sự thay đổi từ một nghề này sang nghề khác do sự thúc đẩy
của ý muốn. Nhưng nếu điều này là đúng thì đó là một tín hiệu khuyến khích quí
báu cho những ai tự thấy mình quá kém cỏi trong nghề nghiệp hiện tại. Có thể rằng
lý do sự kém cỏi của một cá nhân so với tài năng của những người khác là vì cá
nhân ấy chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động này chưa bao lâu, và chưa đủ thời gian
để phát triển tài năng của mình.
Ngoài lòng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố quan trọng
trong việc quyết định sự thay đổi nghề nghiệp. Chẳng hạn, một quả báo tàn tật về
thể xác khi đến lúc chín muồi và xuất hiện có thể làm gián đoạn danh vọng đang
lên của một võ sư nổi tiếng, một sự nghiệp mà
ông này đã dày công rèn luyện đến mức hoàn thiện trải qua nhiều tiền kiếp. Một
quả báo làm gián đoạn một sự nghiệp như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi
qua một nghề nghiệp khác, và có thể làm khơi dậy một khả năng tiềm tàng khác đã
bị chôn vùi và quên lãng từ lâu.
Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bệnh lao xương như đã kể
trong chương 5. Sau khi mắc phải chứng bệnh này một thời gian rất lâu, thiếu nữ
ấy đã yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm nghề gì để
trở nên hữu ích cho xã hội. Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết
thêm rằng cô có thiên tư về âm nhạc, vì trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập cô
đã từng là một nghệ sĩ chuyên về loại đàn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận
thấy rằng mình quả có một năng khiếu đặc biệt về đàn dây, mặc dù trước kia cô
chưa học đàn bao giờ. Sau một thời gian ngắn, cô đã có thể biểu diễn trước công
chúng, và cho dù tài nghệ của cô chưa đủ để được nổi tiếng nhưng ít nhất cô đã
làm được một nghề hữu ích để tìm thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc đời.
Trong những kiếp trước gần đây, cô đã làm những nghề nghiệp
khác. Như vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đã xuất hiện thình
lình để làm gián đoạn một sự nghiệp, nhưng lại làm sống lại một tài năng khác
đã bị quên lãng.
Một vấn đề khác được nêu ra là người ta có thể có kinh nghiệm
cùng lúc về nhiều nghề nghiệp khác nhau hay chăng? Thật ra, trong dòng chảy tự
nhiên của nhiều kiếp sống, mỗi con người đều phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm
khác nhau. Vì thế, hầu như không thể có một con người nào có thể được xem như
chỉ có kinh nghiệm hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, và không biết gì cả về
ngành cơ khí, y học, hay xã hội học. Người ta có thể hình dung rằng mỗi con người
đều phải trải qua ít nhiều những hiểu biết và kinh nghiệm về tất cả mọi ngành
hoạt động khác nhau, chỉ có điều là họ sẽ chọn lấy theo ý muốn sự phát triển vượt
trội của một trong các ngành đó qua nhiều kiếp sống của mình.
Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa
vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, một sự khó khăn về
nghề nghiệp có thể có nguyên nhân từ một sự khuyết điểm về tánh tình, cần phải
được sửa chữa.
Đó là trường hợp của một người đàn ông độc thân, bốn mươi
tám tuổi, làm nhân viên địa ốc, vì tánh tình khó khăn nên càng ngày càng bị
lúng túng trong việc hành nghề. Ông đã yêu cầu ông Cayce soi kiếp để biết
xem có nên đổi qua nghề khác hay chăng, và nghề nào sẽ thích hợp?
Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đã làm nghề dạy học, nhưng ông có một tánh chất
hung bạo, cộc cằn và độc đoán. Ông đã mang theo
tánh chất cứng rắn và bạo ngược đó trong kiếp này, và nó làm cho ông khó hòa
mình trong sự giao tế xã hội.
Ông Cayce khuyên người này không nên đổi nghề mặc dầu
ông ta đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce
nói:
- Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng nếu cố gắng thì ông sẽ học được những bài học cần thiết.
Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong các tập hồ sơ Cayce,
làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstoy. Nhà văn hào này nói rằng
những hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn giáo dùng để cất nhà. Những
giàn giáo này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó mà một ngôi nhà
cao tầng được xây dựng ở phía trong. Nhưng cái giàn giáo đó vốn không hề có một
giá trị lâu dài. Khi ngôi nhà đã xây xong thì người ta phải dẹp bỏ nó. Có lẽ những
sinh hoạt nghề nghiệp của con người cũng cần được hiểu theo cách đó, vì chúng
chỉ là những phương tiện và điều kiện cần thiết cho sự tu dưỡng tâm tánh và tiến
hóa tâm linh mà thôi.
Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc
đời của một số người có những năng khiếu đã bị quên lãng từ lâu và chôn vùi
trong những chỗ thâm sâu kín đáo của tiềm thức.
Những cuộc soi kiếp thường nhắc nhở đương sự chú ý đến những khả năng tiềm tàng
đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng ấy một khi đã được khơi dậy
liền có thể phát triển rất mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt về nghề
nghiệp.
Người ta có thể truy nguyên những khả năng đặc biệt này từ
những kinh nghiệm mà đương sự đã tích lũy được trong những tiền kiếp. Biết được
điều này tức là biết rằng mỗi người trong chúng ta có thể đang chất chứa trong
tiềm thức một số vốn kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến. Những sự say mê
thích thú của ta về một ngành nào đó đều có thể truy nguyên từ những hoạt động
của ta trong những kiếp trước về ngành ấy.
Có người chỉ thích thú đặc biệt những sự vật của xứ Tây Ban
Nha; hoặc có người chỉ ưa thích những sự vật của Trung Hoa, hay Nhật Bản chẳng
hạn; điều đó cho thấy là họ đã từng sống một kiếp trước ở những xứ ấy. Nếu những
người ấy biết trau dồi khuynh hướng của họ bằng cách học tiếng Tây Ban Nha, hoặc
khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản... họ có thể làm khơi dậy
những ký ức sâu xa trong tiềm thức và những khả năng đã tích lũy được trong kiếp
trước ở những xứ ấy. Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp xúc với những người mà họ đã từng có dây liên lạc mật thiết trong
những kiếp đó.
Sự gặp gỡ với những người mà chúng ta đã có nhân duyên cũ từ
kiếp trước có thể hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của chúng ta bằng cách mở cửa
cho chúng ta bước vào những địa hạt hoạt động mà ta không hề nghĩ đến.
Việc làm trước tiên trong vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại
những khả năng của mình và chọn lấy một khả năng nào trội nhất. Những cuộc soi
kiếp của ông Cayce đều đồng ý với các nhà chuyên môn về vấn đề hướng
nghiệp và thường nêu ra những khả năng trội nhất của đương sự. Nhưng trong những
trường hợp khả nghi không quyết đoán, hoặc khi cần đưa ra cho đương sự những cảnh
báo đặc biệt nào đó thì ông Cayce thường đưa ra những nguyên tắc đại
cương làm tiêu chuẩn cho sự quyết định của họ. Những nguyên tắc đó thường được
lặp lại nhiều lần, đến nỗi người ta có thể xem đó như những nguyên tắc căn bản
cho việc chọn lựa nghề nghiệp. Dưới đây là một vài nguyên tắc như thế:
Nguyên tắc thứ nhất:
Hãy xác định và nêu cao một lý tưởng.
Điều này có nghĩa là, ta cần phải định rõ mục đích sâu xa của
cuộc đời mình và tìm mọi cách nỗ lực thực hiện
lý tưởng đó. Sự nêu cao lý tưởng là một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp.
Những cuộc soi kiếp đều nhấn mạnh rằng ta nên biết rõ về cái lý tưởng mà mình
muốn thực hiện. Và lý tưởng đó đối với ta còn cách bao xa?
Ông Cayce cũng nhìn nhận rằng những lý tưởng của một
người thường là phức tạp nhưng chúng ta chỉ có thể đi đúng con đường của mình
khi nào chúng ta nêu được rõ ràng cái mục đích mà mình muốn đi tới. Sự chọn lựa
nghề nghiệp phải căn cứ trên vấn đề xác định và nêu cao lý tưởng trước nhất.
Nguyên tắc thứ hai:
Hãy cố gắng giúp đỡ và phụng sự người khác.
Bằng cách nào ta có thể phụng sự nhân loại một cách hiệu quả
nhất? Đó là tiêu chuẩn quan trọng trong việc chọn lựa một nghề nghiệp. Nếu xét
thấy một nghề nghiệp nào mà qua đó ta có thể giúp đỡ mọi người quanh ta một
cách hiệu quả nhất thì đó chính là nghề nghiệp mà ta nên theo đuổi. Ta đừng bao
giờ quên rằng mình là một phần tử của nhân loại. “Giúp đỡ kẻ khác là việc làm
cao cả nhất.” Đó là một câu thường được lặp lại nhiều lần trong các cuộc soi kiếp.
Đi kèm với phương châm này, ông Cayce còn nói rằng vấn
đề tiền bạc, danh vọng ở đời phải đặt sau lý
tưởng phụng sự người khác, và chỉ nên xem đó là những vấn đề phụ thuộc mà thôi.
Một đứa trẻ mười ba tuổi có năng khiếu đặc biệt về nhiều
ngành khác nhau và chưa biết nên theo học về ngành nào, đã đặt câu hỏi:
- Tôi phải phát triển khả năng nào để đến lúc trưởng thành
tôi có thể kiếm được nhiều tiền bạc nhất?
Câu trả lời của ông Cayce là:
- Em hãy quên đi vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ đến việc
em có thể giúp đỡ người khác bằng cách nào để làm cho cõi đời này trở nên tốt đẹp
hơn. Đừng nên lãng phí công lao cố gắng chỉ vì vấn đề tiền bạc. Tiền bạc sẽ tự
đến với ta khi ta dùng khả năng của mình để phụng sự tốt cho nhân loại.
Một người khác hỏi:
- Tôi nên theo đuổi ngành hoạt động nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?
Câu trả lời cho ông vẫn là:
- Anh hãy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền bạc phải là kết
quả tất nhiên của sự cố gắng giúp đỡ kẻ khác. Sự thịnh vượng về vật chất phải
đi sau lý tưởng phụng sự con người.
Một nhà buôn xuất nhập khẩu cũng nhận được lời khuyên sau đây:
- Phương châm của ông phải là: Tôi muốn phụng sự nhân loại,
và tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như những kết quả tất nhiên của một cuộc đời
tốt lành và phụng sự. Đừng bao giờ xem tiền bạc như những miếng mồi thơm, rồi
vì nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt.
Nguyên tắc thứ ba:
Hãy sử dụng những gì mình đang có trong tay.
Hãy bắt đầu từ vị trí hiện tại của mình. Câu này dường như
hơi thừa, vì đó là một lẽ rất hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như nhiều sự thật hiển
nhiên khác, nó cần được lặp lại và nhấn mạnh, vì người ta vốn có thói quen
khinh thường những điều giản dị và gần gũi để luôn hướng đến tìm kiếm những
chuyện xa vời, khó khăn.
Có nhiều người muốn phụng sự nhân loại, nhưng lại nêu ra một
lý tưởng quá viễn vông, không thiết thực, hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện
tại. Trong khi họ chọn cho mình một mục đích cao cả để theo đuổi, thì trong thực
tế lại mắc kẹt trong một cuộc đời phức tạp không thể nào thoát ra khỏi. Những
trách nhiệm gia đình hay trở lực về tài chánh làm ngăn trở sự thực hiện lý tưởng
của họ.
Đối với hạng người này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng:
- Người ta chỉ có thể sử dụng tốt những gì hiện có trong lúc
này. Cuộc hành trình muôn dặm cũng bắt đầu bằng chỉ một bước chân.
Bước chân đầu tiên đó, người ta phải thực hiện ngay từ vị
trí hiện tại của mình. Một người đàn bà bốn mươi chín tuổi hỏi ông Cayce:
- Tôi nên làm những công việc gì trong đời? Câu trả lời là:
- Bà hãy giúp đỡ những kẻ yếu đuối và những kẻ vấp ngã; giúp
thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất bại.
Bà ấy lại hỏi:
- Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó? Ông Cayce đáp:
- Bà hãy bắt đầu ngay từ những cơ hội hiện tại. Hãy sử dụng
những gì bà đang có và bắt đầu ngay từ vị trí của bà hiện nay.
Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc tương tự. Bà ấy đã
sáu mươi mốt tuổi, vợ của một vị lãnh sự ở một xứ Bắc Âu. Bà đã từng đi du lịch
nhiều nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi:
- Tôi phải làm gì để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?
Câu trả lời cũng giống như trong trường hợp kể trên:
- Bà hãy làm bất cứ việc gì đến với bà hằng ngày. Không phải
người làm nên những kỳ công hiển hách, vang dội mới là những kẻ làm được nhiều
việc nhất; mà chính những ai biết đón nhận lấy mọi cơ hội phụng sự trong cuộc sống
hằng ngày.
Khi những cơ hội hằng ngày luôn được tận dụng triệt để thì
những cơ hội tốt lành hơn sẽ có đủ điều kiện để xuất hiện nhiều hơn, và những
công việc phụng sự lớn lao sẽ đến ta. Đó là vì khi ta dùng những phương tiện
đang có sẵn để phụng sự kẻ khác thì những phương tiện ấy sẽ không bao giờ mất
đi, mà tự nó sẽ tiếp tục phát triển một cách dồi dào hơn trước nữa.
Một người khác cũng nhận được lời khuyên tương tự:
- Anh hãy bắt đầu từ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đã làm xong bổn phận, chắc chắn anh sẽ gặp được
những cơ hội tốt đẹp và lớn lao hơn nữa!
Lời khuyên đầy tính triết lý này tuy nghe có vẻ rất trừu tượng
nhưng lại vô cùng chính xác trong thực tế, và những ai đã tuân theo đều phải thừa
nhận nó như một sự thật vô cùng cụ thể. Lời khuyên này không những áp dụng cho những người có ý muốn phụng sự
nhân loại, mà cũng được áp dụng như một phương thức hữu hiệu dành cho những ai
muốn làm nên sự nghiệp to lớn, vang dội tiếng tăm, cho dù là trên bất cứ lãnh vực
hoạt động nào.
Dường như sự lặp lại nhiều lần trong các cuộc soi kiếp về việc
“cần phải sử dụng những gì mình đang có và bắt đầu từ vị trí hiện tại” là để chống
lại hai khuynh hướng cực đoan thường tình của người đời. Đó là, người ta có thể
trở nên hoàn toàn thụ động vì thấy rằng kiến thức của mình quá hẹp hòi nông cạn;
hoặc vì có một tầm kiến thức quá bao quát rộng lớn.
Có nhiều người biết rõ mục đích mà họ muốn thực hiện trên
các địa hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng vì một sự tính
toán sai lầm, họ bỏ dở nửa chừng và không làm gì cả, mục đích của họ dường như
không thể thực hiện được. Vì họ không biết rõ về tính liên tục của mọi cố gắng
và sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức được rằng thời
gian không phải là yếu tố giới hạn, vì những gì đã bắt đầu trong kiếp này sẽ
đem lại kết quả trong kiếp sau.
Vì lầm tưởng rằng đời sống chỉ giới hạn trong một kiếp sống
duy nhất ngắn ngủi nên họ cho rằng mình không thể thực hiện được mục đích vì
không đủ thời gian. Họ trở nên hoàn toàn thụ động,
tê liệt cả ý chí tiến thủ, và bỏ dở mọi việc. Vì thế, thay vì tích cực thực hiện
được phần nào mục tiêu đề ra, họ lại đứng giậm chân tại chỗ không tiến thêm được
nữa, và trong những kiếp sau họ lại phải khởi sự từ đầu!
Nhưng nếu người ta biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của
ông Cayce là “hãy bắt đầu từ vị trí hiện tại” và “sử dụng những gì hiện
có”, thì sự thụ động kia sẽ không còn nữa, và họ sẽ dùng hết nghị lực để hoạt động
theo đúng đường lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành công
trong tương lai.
Ngoài ra, có những người nhờ tin vào thuyết luân hồi nhân quả
mà hé mở được tầm nhìn vào tương lai, với một viễn ảnh xán lạn huy hoàng, nhưng
họ lại không thể hiện được cái đức tin đó ra thành những hành động xử thế hằng
ngày.
Nhiều nhà triết học và khoa học mãi đắm chìm trong việc học
hỏi khảo cứu các định luật thiên nhiên ảnh hưởng đến sự tiến hóa của nhân loại,
nhưng hoàn toàn không biết rằng sự tiến bộ của con người không chỉ được thực hiện
bằng sự học hỏi suông. Họ chẳng khác nào người du khách mãi lo nghiên cứu lộ
trình trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa nhưng lại chưa bao giờ cất
bước ra đi!
Những người ấy luôn mải mê chạy theo với những vấn đề trừu
tượng siêu hình đến nỗi khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm
một việc hữu ích để giúp đỡ nhân loại thì họ lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn
bất lực.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở
cho chúng ta biết rằng, dù ta sống trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có thể
làm cho hoàn cảnh ấy trở nên thích hợp với những nỗ lực hướng thiện của ta
trong hiện tại. Dù cho gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái nghịch, chúng ta
cũng nên xem đó như những cơ hội giúp ta rèn luyện và tu dưỡng tâm tính, chứ
không nên xem đó như là những chướng ngại.
Khi ta biết vượt qua những hoàn cảnh khó khăn trở ngại thì
chúng ta mới xứng đáng bước vào những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn.
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có đưa ra lời
khuyên như sau:
- Anh hãy nhớ rằng, dù anh sống trong hoàn cảnh nào, điều đó
cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và chính nhờ sự cải
thiện trong từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện được sự tu dưỡng
một cách hiệu quả và vươn đến sự hoàn thiện trong tương lai.
Chính nhờ kiên nhẫn xây lắp từng viên gạch nhỏ mà người ta mới
hoàn tất được những ngôi nhà đồ sộ. Khi một người đã phát khởi ý nguyện sẵn
sàng phụng sự nhân loại, sự cố gắng không ngừng trong từng giờ từng phút là điều
kiện cần thiết cho sự hoàn thành tâm nguyện đó, và từ đó anh ta sẽ gặp được những
hoàn cảnh, những cơ hội thuận tiện hơn. Mỗi người chúng ta hãy xây dựng tương
lai của chính mình với những gì đang sẵn có trong tay, và phải khởi sự một cách
kiên nhẫn ngay từ những việc làm vô cùng nhỏ nhặt. Đó là những viên gạch nhỏ
không thể thiếu nếu ta muốn xây dựng một tòa nhà tương lai thật đồ sộ và kiên cố.
Nhân quả đối với nghề nghiệp - Chương 19
CHƯƠNG 19
NHÂN QUẢ ĐỐI VỚI NGHỀ NGHIỆP
Tất cả chúng ta đều mang trong người vô số những sở trường
và sở đoản, những đức tính và thói hư tật xấu, những cái hay và cái dở, ưu điểm
và khuyết điểm... được huân tập, tích lũy từ lâu đời. Điều này được biểu hiện
rõ ràng trong những cuộc soi kiếp đặc biệt của ông Cayce, nhằm mục đích giúp đỡ
trong việc hướng nghiệp cho một số người.
Trước đây, ta đã thấy những ảnh hưởng năng khiếu từ tiền kiếp
có thể lưu lại đến kiếp sống này như thế nào, và chính điều đó đã tạo ra những
khả năng, năng khiếu đặc biệt quan trọng trong cuộc đời mỗi người.
Một thí dụ điển hình là trường hợp của một thiếu phụ làm nghề
sửa sắc đẹp ở New York. Cô làm chủ một thẩm mỹ viện hạng sang, chuyên sửa
sắc đẹp cho phụ nữ, từ việc uốn tóc, chải đầu... cho đến tư vấn, hướng dẫn về cung cách ăn nói, dáng điệu... Bản thân cô
cũng là một người có sắc đẹp và dáng vẻ rất thùy mị, đáng yêu...
Cuộc soi kiếp cho cô gái này tiết lộ rằng trong ba kiếp trước
đây chỉ có hai kiếp là có ảnh hưởng trực tiếp đến khuynh hướng nghề nghiệp của
cô bây giờ. Một kiếp diễn ra dưới triều đại vua Louis XV ở Pháp. Khi ấy
cô có một ảnh hưởng lớn đối với nhà vua và hoàng triều. Trong kiếp đó, cô là một
chuyên gia về ngành giao tế, lễ nghi cùng phép xã giao lịch sự, nghệ thuật
trang sức và những bí quyết chỉnh sửa sắc đẹp. Trong kiếp trước nữa, cô sống dưới
thời Đế quốc La Mã, và là một trong những người đầu tiên trong hàng quí tộc theo
đạo Gia Tô. Lùi xa hơn về dĩ vãng, cô đã sống ở xứ cổ Ai Cập vào khoảng 13.000
năm trước Công nguyên và đã từng làm việc công quả trong một ngôi đền.
Trong kiếp sống ở Pháp, cô đã thâu thập được những kinh nghiệm
về đời sống lộng lẫy xa hoa; cô đã phát triển những khả năng đặc biệt về giao tế
và phép lịch sự trong đời sống xã hội. Nhưng những kinh nghiệm mà cô đã thâu thập
được trong một ngôi đền thời cổ Ai Cập cần được giải thích rõ ràng hơn. Dường
như thời kỳ đó ở Ai Cập có hai ngôi đền lớn, gọi là đền Mỹ Lệ và đền Hy Sinh.
Người ta thấy rải rác trong vài chục cuộc soi kiếp những mô tả về hai ngôi đền
này, và do sự góp nhặt những tài liệu đó, người
ta có một ý niệm khá hoàn chỉnh về những gì đã xảy ra ở đó.
Ngôi đền Mỹ Lệ là một kiểu trường đại học, nhưng không chỉ
đào luyện về mặt trí dục không thôi mà còn hướng đến việc đào tạo nhân cách
toàn diện cho người học. Tất cả những nghệ thuật và khoa học đều được sử dụng để
đào tạo nên mộttâm hồn cao thượng và một thể xác kiện toàn cho các học viên, để
chuẩn bị cho họ trở nên những người công dân có khả năng, tích cực hoạt động
cho xứ sở.
Ngôi đền này còn là trường huấn luyện về mặt tôn giáo và đạo
đức tâm linh. Ngôi đền này có bảy trung tâm đào tạo có kỷ luật, theo qui mô của
bảy luân xa hay bí huyệt trong cơ thể con người. Điều này cho ta thấy rằng
chương trình học tập và kiến trúc của ngôi đền được quan niệm dựa trên sự hiểu
biết sâu xa về khoa huyền môn thời cổ.
Một trong những ngành hoạt động của ngôi đền Mỹ Lệ là vấn đề
hướng nghiệp căn cứ trên nền tảng tâm linh. Nhiều người trong kiếp này chú trọng
đến vấn đề hướng thiện, phát triển nhân cách, hoặc đào tạo nhân phẩm bằng nghệ
thuật và tôn giáo, khi truy nguyên ra thì được biết rằng trong kiếp trước, họ
là những giáo sư hay sinh viên đã từng theo học ở ngôi đền Mỹ Lệ hồi thời cổ Ai
Cập.
Còn đền Hy Sinh thì giống như một bệnh viện, trong đó người
ta áp dụng nhiều kỹ thuật cao để giải phẫu và chữa bệnh (có lẽ do người Atlante
truyền lại). Phép chữa bệnh này theo một nguyên tắc chính là kiện toàn thể
xác và cải tiến giống nòi. Người ta xem trung tâm y khoa này là một ngôi đền vì
có ý nhấn mạnh một sự hướng dẫn tâm linh.
Dưới đây là trường hợp của một vị y sĩ chuyên môn chữa bệnh
đau khớp xương. Cuộc soi kiếp cho biết rõ bốn tiền kiếp của ông, mà có ba kiếp ảnh
hưởng đến phương diện nghề nghiệp của ông trong kiếp này. Ông đã từng làm y sĩ ở
châu Mỹ từ giai đoạn ban sơ và có giao thiệp nhiều với thổ dân xứ ấy, nhờ đó mà
học được phép chữa bệnh theo lối tự nhiên và bằng các loại thảo dược.
Trong các cuộc soi kiếp, nếu người nào trước kia đã từng có
tiếp xúc chặt chẽ với thổ dân châu Mỹ, hoặc chính họ là thổ dân da đỏ trong kiếp
trước, đều tỏ ra có khuynh hướng sống một đời sống tự nhiên nơi những chốn rừng
cây, ưa thích cảnh trí thiên nhiên, thích làm những công việc lao động tay chân
và dùng cách chữa bệnh theo phương pháp tự nhiên.
Trong kiếp thứ hai, vị y sĩ nói trên trông coi các nhà tắm
công cộng và chuyên về phép thoa bóp ở La Mã dưới thời kỳ đầu Công nguyên.
Trong kiếp thứ ba, ông ta sống ở Ba Tư và
trong kiếp thứ tư trước đó ông làm nghề ướp xác bằng đầu thơm ở xứ cổ Ai Cập,
khoảng 13.000 năm trước Công nguyên. Có lẽ kinh nghiệm của ông trong kiếp đó đã
giúp cho ông có sự hiểu biết sâu xa về những bộ phận bên trong cơ thể con người
cùng ảnh hưởng của các chất hương liệu và cỏ thơm đối với con người.
Trường hợp sau đây là của một nghệ nhân ở Hollywood,
làm giám đốc chuyên môn về màu sắc trong một hãng phim. Cuộc soi kiếp cho biết
ông đã từng sống với ngành mỹ thuật trong ba kiếp trước. Tất cả có bốn tiền kiếp
đã được soi thấu. Trong một kiếp, ông làm người trang hoàng nhà cửa vào cuối thời
kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông làm sĩ quan trong quân đội
kỵ binh ở Nga. Trong kiếp kế đó nữa ông làm nhà trang trí mỹ thuật cho một bà
hoàng ở Đông Dương. Và trong kiếp xa xưa nhất, ông làm người trang hoàng bên
trong của ngôi Đền Lớn ở xứ cổ Ai Cập.
Người ta có cảm tưởng rằng nhờ kinh nghiệm trong kiếp làm sĩ
quan kỵ binh mà kiếp này ông phát triển những đức tánh linh hoạt, tỉ mỉ, cẩn thận
và năng động, cùng với tánh thích chưng diện và lòng háo thắng. Như vậy, nhiều
điểm trong tánh tình đã giúp cho công việc làm của ông ở kiếp này có thêm phần sinh khí và linh động, dường như có nguyên nhân từ
những kinh nghiệm ở kiếp làm sĩ quan kỵ binh, cho dù nghề quân nhân không có
liên quan gì đến mỹ thuật. Còn những kỹ năng sắc sảo về phương diện nghệ thuật
thì lại có nguyên nhân từ ba kiếp đã từng hoạt động trong ngành nghệ thuật.
Một nhà soạn nhạc tiếng tăm ở New York cũng đã có những
kinh nghiệm về ngành này trong nhiều tiền kiếp. Trong một kiếp trước, hồi thời
kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông đảm nhiệm những lớp dạy âm nhạc và dạy hát
trong các trường. Một kiếp khác, ông là người Đức, làm nghề chế tạo các loại
đàn dây. Trong kiếp thứ ba, ông là nghệ nhân hài trong triều vua Nabuchodonosor
ở xứ Chaldee. Kiếp cuối cùng lui về quá khứ, ông là một người dân Atlante
đến xứ Ai Cập và lãnh trách nhiệm coi sóc phần âm nhạc trong những cuộc tế
lễ ở các đền thờ. Sự thích thú của ông về âm nhạc trong kiếp này dường như là do
bởi kinh nghiệm của ông trong kiếp làm nghề chế tạo đàn. Tánh hài hước và óc
linh hoạt của ông được truy nguyên ra từ kiếp làm diễn viên hài; và những khả
năng về âm nhạc của ông được truyền lại từ hai kiếp làm nhạc sĩ.
Đôi khi, những thú vui tiêu khiển ngoài vòng hoạt động nghề
nghiệp của một người cũng có nguyên nhân từ những tiền kiếp. Chẳng hạn như trường
hợp của một viên giám đốc ngân hàng, từ thuở
nhỏ đã tỏ ra ham thích các môn thể thao, nhất là môn quần vợt. Khi vị mục sư
nhà thờ Baptiste, mà ông là một tín đồ, quở trách việc ông chơi đánh
banh vào ngày chúa nhật thì ông tức khắc rời khỏi giáo hội! Ngân hàng đã trở
nên ngành hoạt động nghề nghiệp của ông và nhờ đó ông đã gầy dựng được một sản
nghiệp lớn. Nhưng ông thường dùng thời giờ rảnh để tham gia một câu lạc bộ quần
vợt.
Chúng ta hãy thử xét những nghề nghiệp của ông trong các tiền
kiếp. Trước hết, ông là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên, làm
nghề xuất nhập khẩu ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông là người La Mã, đảm nhiệm
việc tổ chức các trò giải trí công cộng tại các vũ trường. Một kiếp nữa, ông là
tù trưởng của một bộ lạc du mục ở Ba Tư, chuyên tổ chức những trung tâm trao đổi
hàng hóa. Trong kiếp thứ tư, ông là quan thủ kho của triều đình xứ Ai Cập thời
cổ.
Người ta nhận thấy rằng ba kiếp trong số đó đã trực tiếp ảnh
hưởng đến nghề nghiệp và ngành ngân hàng của ông bây giờ. Kiếp thứ hai làm nhà
tổ chức các cuộc giải trí ở La Mã đã giúp cho ông có khả năng lãnh đạo, nhờ đó
có thể tiến lên địa vị giám đốc ngân hàng. Đồng thời, kinh nghiệm ở kiếp đó
cũng là nguyên nhân sự thích thú của ông về các môn điền kinh, thể dục ở kiếp
này.
Trong các cuộc soi kiếp về vấn đề hướng nghiệp, ông Cayce
thường khuyên một số người nên theo đuổi môn học này hay môn học khác, tùy
theo những gì ông nhận biết về tiền kiếp của người đó.
Môn chữa bệnh bằng điện ngày nay đã khá phổ biến, và những lời
khuyên của ông Cayce đối với một số người về ngành học này thường dựa
trên những kinh nghiệm trong tiền kiếp của họ ở Ai Cập hay ở châu Atlantide.
Dường như vào khoảng mười ngàn năm trước Tây lịch, vào thời kỳ tai biến cuối
cùng trong ba cơn thiên tai lớn đã tiêu diệt châu Atlantide, có nhiều
người Atlante đã kịp di cư sang Ai Cập. Họ đã đem theo những kiến thức
và sự tiến bộ của họ về nghệ thuật và khoa học. Tuy họ không thể xây dựng lại nền
văn minh của họ một cách hoàn chỉnh như trước, nhưng những gì còn sót lại về
khoa học và kiến thức của họ đã hỗn hợp với nền văn minh Ai Cập. Trong tất cả
những trường hợp mà ông Cayce khuyên đương sự nên theo đuổi ngành chữa bệnh
bằng điện đều có một điểm lý thú chung là, tuy ngành này còn khá mới mẻ với con
người hiện nay, nhưng đây lại là một ngành học thuật rất cổ mà con người xưa
kia đã từng am hiểu.
Trong nhiều trường hợp, khi các đương sự tỏ ra thích thú say
mê ngành hàng không, điện tử, vô tuyến điện, thôi miên, nguyên tử lực .v.v...
thì những sự thích thú này đều được truy
nguyên từ những kinh nghiệm của đương sự trong một kiếp trước ở châu Atlantide.
Từ đó, người ta có thể kết luận rằng khi một người có khuynh
hướng hoặc tài năng rõ rệt về một môn học hay một ngành hoạt động nào, thì chắc
chắn rằng trong một hay nhiều kiếp trước, người ấy đã từng theo đuổi và thực
hành những môn ấy, hoặc ít ra cũng là một ngành hoạt động tương tự.
Nhiều trường hợp khác đưa đến kết luận rằng sự thay đổi nghề
nghiệp chưa hẳn đã là một sự thất bại, nếu sự thích thú đối với nghề nghiệp mới
chọn có căn cứ chắc chắn trong dĩ vãng, và những khả năng về nghề nghiệp này đã
được phát triển trong tiền kiếp.
Thí dụ dưới đây là trường hợp của một người ba mươi mốt tuổi,
mặc dầu đã có gia đình nhưng lại quyết định bắt đầu theo đuổi việc học y khoa.
Vì những lý do nào đó, ông đã không thể theo học ngành y từ trước đó, mặc dầu
cha ông là một bác sĩ.
Ông yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc soi kiếp. Ông
muốn biết xem quyết định của ông có thể thực hiện được không, và sau cùng ông
có thành công trong ngành y khoa hay không.
Cuộc soi kiếp xác nhận những điều ông mong muốn, và cho biết
rằng sự thích thú của ông về ngành y có nguyên
nhân từ thời kỳ khởi nghĩa ở Mỹ quốc. Trong tiền kiếp đó, ông là một người lính
hầu, làm công việc đưa thư tín trong quân đội. Dường như nhờ thiện chí và khả
năng thông cảm nên ông được cấp trên giao cho công tác đi phủ dụ và nâng đỡ
tinh thần binh sĩ. Chính trong lúc đó, ông nảy sinh ý muốn trở nên một y sĩ. Cảnh
tượng đau khổ của những thương binh ngoài mặt trận làm cho ông muốn có sự hiểu
biết và phương tiện nghề nghiệp của một y sĩ để xoa dịu những đau khổ đó.
Chính sự mong muốn này đã khiến ông sinh ra trong một gia
đình có người cha làm y sĩ trong kiếp này. Điều này hẳn là một hoàn cảnh thuận
tiện để cho ông bước vào ngành y khoa. Tuy rằng người ta không biết rõ lý do vì
sao ông quyết định hơi trễ trong việc theo học ngành này, nhưng có lẽ đó là vì
ông ta đã lập gia đình hơi sớm. Có thể rằng giữa hai vợ chồng ông ta có một sự
hấp dẫn mãnh liệt do duyên nghiệp tạo nên từ kiếp trước, và sự theo đuổi cuộc
hôn nhân đó đã làm cho ông tạm gác lại các mục đích khác.
Nhưng điều quan trọng là cuộc soi kiếp đã tiên đoán trước sự
thành công của ông trong một ngành mà ông mới bắt đầu theo đuổi khá muộn màng.
Nói tóm lại, việc truy nguyên các năng khiếu nghề nghiệp của
một người thường chỉ ra rằng các khả năng đó đã được huân tập từ một hay nhiều
kiếp trước đó, vì đương sự đã từng có kinh nghiệm
về nghề nghiệp đó hay một nghề tương tự. Một sự thích thú say mê một ngành hoạt
động nào đó thường có nghĩa là trong một kiếp trước ngành hoạt động đó là nghề
nghiệp chính của đương sự.
Điều đáng nói là, nhiều ngành nghề chỉ mới xuất hiện trên thế
giới hiện nay trong thời gian gần đây nhưng thật ra chính là những nghệ thuật
và khoa học của nhân loại từ thời cổ đã bị thất truyền, có thể là từ thời đại Atlantide
và Ai Cập cổ đại.
Cũng có một số người chỉ mới bước vào một ngành hoạt động
nào đó lần đầu tiên, và điều đó cho thấy khả năng thành công của họ trong ngành
nghề đó chưa thể nắm chắc. Ngược lại, nếu trong quá khứ họ đã từng say mê và
phát triển những khả năng về một ngành nghề nào thì sự thành công trong ngành
nghề đó ở kiếp này sẽ là một điều chắc chắn hơn.
Nghiệp quả giữa cha mẹ và con cái - Chương 17
CHƯƠNG 17
NGHIỆP QUẢ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI
Trải qua nhiều thế kỷ, gia đình vẫn là một cấu trúc đặc biệt
độc lập trong mọi xã hội, với vai trò gia trưởng của người cha, hay người mẹ
theo phong tục ở một vài xứ Theo một quan niệm xưa kia, người ta xem con cái
như là vật sở hữu của cha mẹ, vì chúng được sinh ra bởi sự mang nặng đẻ đau và
hy sinh của người mẹ, được nuôi dưỡng bởi sự khó nhọc vất vả của người cha.
Về phương diện thể chất, những người làm cha và mẹ có một thể
chất khỏe mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm sống hơn con cái; vì lẽ đó, đương nhiên họ
giữ quyền quyết định mọi việc trong gia đình.
Nhưng về phương diện tâm linh thì chưa hẳn cha mẹ đã là tuyệt
đối cao cả hơn con cái. Tất cả chúng sinh đều là những thực thể bình đẳng trong
vũ trụ. Hơn nữa, về mặt tâm linh thì cha mẹ không có quyền sở hữu con cái, thậm
chí cũng không được xem là những người tạo ra con cái. Sự ra đời của một con
người là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố, mà trong đó cha mẹ chỉ là những yếu tố biểu hiện rõ nét nhất. Ngoài ra còn
có những yếu tố ẩn tàng nhưng không kém phần quan trọng, chẳng hạn như những điều
kiện nhân duyên, nghiệp quả... dẫn đến sự ra đời trong kiếp sống này của một
chúng sinh nào đó.
Vì thế, với một nhận thức toàn diện và chính xác hơn thì người
ta không xem con cái là “thuộc quyền sở hữu” của cha mẹ. Nếu cha mẹ thực sự có
giữ quyền quyết định một số vấn đề quan trọng liên quan đến con cái, thì điều
đó phải là xuất phát từ tình thương yêu vô bờ bến mà họ dành cho con cái, cũng
như trách nhiệm thiêng liêng là mang lại cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc cho tất
cả đứa con mà mình đã sinh ra.
Cho nên, những bậc cha mẹ mẫu mực thường không có một thái độ
áp chế của kẻ bề trên hoặc ghét bỏ đối với con cái. Họ luôn giữ một thái độ
bình thản ôn hòa đối với con cái, và đôi khi cũng cần thiết phải che giấu đi sự
thương yêu nồng nhiệt trong lòng mình để sự giáo dục con cái được tốt đẹp hơn.
Ngoài lòng thương yêu, họ còn nhận biết là mình có bổn phận phải nuôi dưỡng
chăm nom con cái thật tốt, cũng như cha mẹ họ trước đây đã làm với họ.
Thái độ yêu thương và trân trọng đối với con cái thường chỉ
có được khi các bậc cha mẹ luôn nhận thức được rằng, là “Tất cả chúng sinh đều
bình đẳng như nhau.”
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng mối
liên hệ giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi
dây liên hệ quan trọng này đã có sẵn từ những kiếp trước giữa người con với người
mẹ hay người cha, thường là theo chiều hướng tốt đẹp, quyến luyến với nhau.
Trong những trường hợp rất hiếm khi sự liên hệ này có chiều hướng rất xấu, chẳng
hạn như một mối oan khiên nặng nề nào đó đã cuốn hút những chúng sinh này đến với
nhau trong một gia đình để cùng nhau “thanh toán” món nợ cũ, thì tình trạng gia
đình khi ấy sẽ trở thành một hoàn cảnh thích hợp để những nghiệp quả chín muồi
sớm kết thành quả báo.
Những hồ sơ Cayce cho biết rằng duyên nghiệp của một
đứa con đối với người cha có thể theo một chiều hướng khác với người mẹ, hoặc
ngược lại. Điều này giải thích vì sao có những trường hợp mà con cái có khuynh
hướng dửng dưng hoặc lạnh nhạt với người cha hoặc người mẹ, trong khi vẫn có được
tình cảm tốt đẹp đối với người kia.
Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt
nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái. Hai mẹ con người kia có một
tình mẫu tử rất khắn khít và họ đã từng có quan hệ mẹ con trong một kiếp trước.
Hai cha con người kia cũng có một tình phụ tử
nồng nàn và trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia đình. Một
người mẹ không hợp tính với con gái của bà và được biết là họ đã từng có nhiều
hiềm khích với nhau trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của
cô ấy chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt và cuộc soi kiếp cho biết rằng kiếp trước
hai người là chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa rất sâu sắc, thường xung
đột cãi vả lẫn nhau và vẫn chưa bao giờ hòa thuận trở lại. Hai cha con người
kia kiếp trước đã từng là hai vợ chồng. Một người mẹ và cô con gái thường xung
đột lẫn nhau và được biết rằng trong kiếp trước họ từng là hai bạn gái cùng
tranh nhau một người đàn ông. Trong hai mẹ con người kia, người con trai hay lấn
át người mẹ và được biết là trong kiếp trước họ từng là hai cha con, với mối
liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ ra rằng sự hấp dẫn của con cái đến với
cha mẹ có thể do tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố đó phần
nhiều đều không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Những hồ sơ Cayce giúp ta có được những tài liệu để
suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để ta có thể diễn dịch ra thành những định
luật hay nguyên tắc nhất định. Tuy nhiên, có vẻ như theo luật hấp dẫn trong tự
nhiên thì những người đồng thanh khí và giống
nhau về tâm tình, tánh chất thường có khuynh hướng đến gần nhau hơn, do đó rất
dễ sinh ra trong cùng một gia đình. Nhưng đồng thời, do tác động của luật nhân
quả, những kẻ thù oán nhau và có “nợ nần” với nhau cũng có khuynh hướng đến gần
nhau. Điều này cũng tương tự như khi một người nuôi lòng oán hận ai đó thì lúc
nào trong tâm trí anh ta cũng luôn lởn vởn hình bóng của người kia.
Một thí dụ điển hình là trường hợp đứa trẻ kia được ông Cayce
soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi kiếp cho biết những cá tính nổi bật
của đứa trẻ này là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh đạm với người khác và ngoan cố
không chịu phục thiện khi có lỗi. Nhưng nó có những năng khiếu tiềm tàng của một
nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, nó từng là một nhà nghiên cứu về
khả năng sử dụng hơi nước để tạo ra năng lượng. Trong một kiếp trước đó, nó từng
là một chuyên viên hóa học chế tạo các loại chất nổ; trong kiếp trước nữa nó là
một chuyên viên ngành cơ khí; và đi lùi về quá khứ thêm một kiếp nữa, nó là một
kỹ sư điện khí ở châu Atlantide. Bốn kiếp sống với sự hoạt động tích cực
trong các ngành khoa học thực dụng đã làm cho đương sự phát triển những khả
năng đặc biệt, nhưng lại quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ
giá trị của tình thương và sự hòa hợp nhất tâm linh giữa
muôn loài. Bởi đó, nó sinh ra sẵn có một thái độ thản
nhiên lạnh lùng đối với mọi người chung quanh.
Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ
vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí hay cơ khí. Lời
tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giờ đã trở thành một kỹ sư điện
khí rất giỏi và những điểm chính trong tánh tình của anh ta đều giống như cuộc
soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng đã có một vài sự thay đổi tốt hơn nhờ ảnh hưởng của
hoàn cảnh gia đình trong kiếp sống hiện tại.
Nếu xét theo luật tương ứng thì những người có tâm tính giống
nhau sẽ có khuynh hướng đến gần nhau, nhưng trong trường hợp này thì đứa trẻ đã
không sinh ra trong một gia đình khoa học có tri thức tương ứng, chẳng hạn như
với một người cha là kỹ sư và người mẹ là giáo sư đại học. Trái lại, nó đã thực
sự sinh ra trong một gia đình gồm toàn những người nuôi lý tưởng vị tha, không
xem trọng những giá trị vật chất. Người cha đứa bé có óc tín ngưỡng tôn giáo và
thích những hoạt động từ thiện xã hội; người mẹ tuy kém năng lực xã giao nhưng
cũng có khuynh hướng hoạt động từ thiện xã hội do ảnh hưởng của người cha. Người
anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng vị tha và hoạt động chính của
anh ta là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, thì sự ra đời của một đứa trẻ như thế trong
gia đình này là có phần nghịch lý. Tuy nhiên, chính những sự tương phản này lại
có một tác dụng vô cùng tích cực. Chính nhờ sinh trong một gia đình có lý tưởng
vị tha giúp đời mà đứa trẻ này đã có cơ hội phát triển tình thương và đức tính
vị tha trong tâm tính của nó. Nhờ có dịp tiếp xúc thường xuyên trong gia đình với
những người nuôi lý tưởng phụng sự kẻ khác nên tâm tính của đứa trẻ đã được
chuyển hóa theo chiều hướng tích cực hơn. Óc thực tế và khoa học của đứa trẻ
thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh, và lý
tưởng vị tha của họ hằng ngày luôn nhắc nhở cho nó biết rằng ngoài những giá trị
vật chất của cuộc đời còn có những giá trị đạo đức tâm linh cao cả hơn. Tuy rằng
kinh nghiệm đó không đưa đến một sự thay đổi hoàn toàn cá tính căn bản của đứa
trẻ là óc khoa học thực dụng, nhưng cũng đã ảnh hưởng tích cực đến con người của
nó và làm cho nó giảm bớt sự ích kỷ khô khan cũng như trở nên cởi mở hồn nhiên
hơn về mặt giao tế xã hội.
Như thế, hoàn cảnh đầu thai dường như có quan hệ đến nhiều yếu
tố phức tạp chứ không chỉ đơn thuần tuân theo một vài nguyên tắc mà người ta
thường nhắc đến. Những tài liệu hồ sơ Cayce cho thấy rằng sự tái sinh của
một tâm thức dường như cũng có ít nhiều sự tự do chọn lựa hoàn cảnh và gia đình
trong một số trường hợp, nhưng trong hầu hết
các trường hợp khác thì điều đó phụ thuộc vào các điều kiện nhân duyên và nghiệp
quả là chính.
Có một vài bằng chứng cho thấy rằng đối với những tâm thức
nào có trình độ tâm linh cao, nghĩa là đã qua sự dày công tu dưỡng, thì khả
năng tự do chọn lựa ấy càng được gia tăng, còn đối với những người bình thường
thì hầu như khả năng ấy rất hạn chế.
Thật không dễ gì hiểu được những lý do khiến cho một người
sinh ra trong một căn nhà ổ chuột tối tăm với cha mẹ bần cùng khốn khó, hoặc với
một thể xác yếu đuối bệnh tật và những hoàn cảnh bất lợi khác; trong khi một
người khác lại sinh ra trong một gia đình giàu có sung túc hoặc quyền thế hơn
người. Nhìn thoáng qua sự việc thì dường như chỉ là những sự tình cờ may rủi;
nhưng nếu xét theo luật nhân quả thì có thể thấy rằng tất cả những điều ấy đều
có những nguyên do sâu xa của nó.
Một điểm lý thú khác được tìm thấy trong những tập hồ sơ Cayce
là ảnh hưởng quan trọng của người mẹ trong suốt thời gian đứa trẻ còn nằm
trong bụng mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà mẹ đang mang thai hãy
thận trọng giữ gìn tránh những tư tưởng xấu và cố gắng rèn luyện, nuôi dưỡng những
tư tưởng cao thượng, vị tha trong suốt thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng của
người mẹ ảnh hưởng rất lớn đến bào thai và quyết
định một phần nào tâm tính của đứa con về sau này.
Dưới đây là một đoạn vấn đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này:
Hỏi: Tôi đang mang thai, tôi nên có một thái độ tinh thần như thế nào trong những tháng sắp tới?
Đáp: Điều đó tùy thuộc vào sự mong muốn của bà
đối với đứa con sau này. Nếu bà muốn con bà là một nghệ sĩ hay nhạc sĩ, bà hãy
dành nhiều thời gian suy nghĩ và tiếp xúc với âm nhạc, nghệ thuật. Nếu bà muốn
con bà sẽ giỏi về máy móc, kỹ thuật, bà hãy nghĩ nhiều đến những điều ấy. Bà đừng
tưởng rằng những điều ấy không có ảnh hưởng gì!
Đây là một điều mà các bà mẹ đều nên biết: tâm trạng của người
mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất nhiều đến tánh tình của đứa trẻ sau
này.
Tóm lại, sự ra đời của một con người không phải là một sự
tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ chào đời không phải là một điều giản dị
như nhiều người lầm tưởng. Mối quan hệ giữa các bậc cha mẹ với con cái rõ ràng
là rất đa dạng và phức tạp, luôn bắt nguồn từ những liên hệ sâu xa trong quá khứ
và cần được xác lập trên nền tảng của những mục đích tinh thần cao quý hơn là
những giá trị vật chất thô thiển nhìn thấy được.
Ngoại tình và ly dị - Chương 16
CHƯƠNG 16
NGOẠI TÌNH VÀ LY DỊ
Trong tất cả những xứ theo chế độ một vợ một chồng thì sự
ngoại tình là việc vẫn thường xảy ra. Sự giải thích căn bản của hiện tượng này
có lẽ là vì lý do sinh lý. Nhưng trong những nguyên nhân của vấn đề ngoại tình,
ngoài yếu tố sinh lý lẽ tất nhiên còn có những yếu tố xã hội và tâm lý nữa.
Nhưng nếu người ta áp dụng thuyết luân hồi thì thật là một
điều lý thú để tìm hiểu xem sự ngoại tình có thể là do nhân quả hay không? Những
tập hồ sơ Cayce có ghi chép ba trường hợp đáng kể mà sự ngoại tình dường
như do nhân quả gây nên.
Trường hợp thứ nhất là của một thiếu phụ có hai con mà người
chồng đã ngoại tình với một người đàn bà khác
trong tám năm. Người vợ chỉ biết được việc ấy trong hai năm sau cùng.
Trong cuộc soi kiếp, nàng hỏi tại sao phải chịu đựng một sự
phụ bạc đau đớn như thế? Câu trả lời là:
- Đó là vì trong kiếp trước chính bà đã ngoại tình với một
người đàn ông khác.
Trường hợp thứ hai là của một thiếu phụ đã phản bội chồng một
cách trắng trợn trong kiếp trước, dưới vương triều nước Pháp. Hiện nay nàng đã
có những hành vi tương tự với người chồng nàng bây giờ, và người này lại chính
là tình nhân của nàng trong kiếp trước.
Trường hợp thứ ba là của một người đàn bà mà người chồng
trong năm đầu tiên sau khi thành hôn đã bắt đầu chè chén say sưa và chơi bời
đàng điếm. Có nhiều lần anh ta đưa cả một người đàn bà khác về nhà. Người vợ vẫn
trung thành và sống chung với chồng, khi chồng nàng không đem tình nhân về nhà.
Rốt cuộc nàng lại mắc phải bệnh phong tình do người chồng lây sang.
Cuộc soi kiếp truy nguyên cái thảm trạng của người đàn bà
này ở kiếp trước. Trong kiếp đó, nàng là đứa con hoang của một một thủy thủ Mỹ
và một người đàn bà Nhật. Có lẽ sự kiện này gây cho nàng cái ý niệm rằng nàng là một kẻ ngoài vòng pháp luật. Khi lớn lên,
nàng tự buông thả theo một cuộc đời chơi bời trụy lạc. Không bao lâu, nàng dã
gieo rắc bệnh phong tình cho nhiều người đàn ông khác. Cuộc soi kiếp nói:
- Bởi những nghiệp xấu gây ra đã đem lại quả báo cho đương sự
trong kiếp này.
Nói tóm lại, những trường hợp kể trên dường như chỉ ra rằng
sự phản bội của một người chồng hay người vợ có thể là do nhân quả gây nên.
Nhưng những thí dụ đó không phải để chứng minh rằng tất cả mọi trường hợp ngoại
tình đều là do quả báo. Việc một người phản bội vợ có thể do quả báo mà người vợ
ấy phải chịu vì cô ta đã phản bội một người khác trong kiếp trước; nhưng dầu
sao thì sự ngoại tình của người chồng cũng có thể do những khiếm khuyết trong
tâm tính của người vợ.
Sự ngoại tình rất có thể chỉ là một phản ứng nhất thời đối với
một tình trạng hiện tại. Muốn biết xem một trường hợp ngoại tình có phải là do
nhân quả hay không, nếu ta không có thần nhãn để nhìn xem quá khứ, thì ta cần
phải xét cả những yếu tố lỗi lầm hay khuyết điểm của người vợ hay người chồng
trong hiện tại, có thể là nguyên nhân làm cho đương sự đi tìm nguồn an ủi ở một
người tình nhân khác.
Theo luật nhân quả, nếu một người đã ngoại tình trong quá khứ
thì phải chịu quả báo tương ứng trong hiện tại. Nhưng vì muốn giúp mọi người
phát triển những đức tánh trung thành và tình thương đối với kẻ khác nên trong
những cuộc soi kiếp ông Cayce thường khuyên không nên ly dị. Nếu một cuộc
hôn nhân đau khổ là quả báo do những lỗi lầm trong quá khứ, thì sự đoạn tuyệt
và trốn tránh cũng không có ích gì, vì sớm muộn gì người ấy cũng phải trả xong
món nợ đó mà thôi. Vì thế, giải pháp tốt hơn là phải tự mình rèn luyện một sức
mạnh tinh thần cần thiết để đối phó và vượt qua được nghịch cảnh đó.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp cũng không ngăn cấm sự ly dị
một cách tuyệt đối, mà có nhiều trường hợp lại tán thành quyết định này. Những
tiêu chuẩn để xét đoán xem một trường hợp ly dị là nên hay không nên, dường như
có hai loại, đó là bổn phận đối với những đứa con và bổn phận giữa hai vợ chồng.
Những trường hợp mà ông Cayce khuyên nên ly dị một
cách rõ rệt thường là những trường hợp mà hai vợ chồng không có con. Hoặc nếu
có, thì đó là những trường hợp mà sự ly dị sẽ có lợi cho những đứa con; hay là
những trường hợp mà một trong hai vợ chồng không đối phó nổi với hoàn cảnh và
lôi cuốn cả người kia xuống vực sâu.
Trường hợp điển hình là của một người đàn bà ở tiểu bang New
Jersey, bốn mươi chín tuổi, không có con và trong hôn nhân không có hạnh
phúc. Cuộc soi kiếp khuyên nàng nên ly dị chồng và nên dùng khả năng của mình để
đi dạy học.
Cuộc soi kiếp nói:
- Hôn nhân là một việc tốt, đó là một đời sống tự nhiên cho
mọi người trên thế gian. Nhưng khi đời sống giữa vợ chồng thiếu sự hòa hợp đến
nỗi làm ngăn trở sự thực hiện những mục đích căn bản của cuộc đời, và nếu sự bất
hòa ấy quá rõ rệt, không thể sửa đổi được nữa, thì tốt hơn là hai người nên
chia tay nhau.
Một thí dụ trái ngược hẳn với thí dụ trên là trường hợp của
một người đàn bà lớn hơn chồng đến hai mươi tuổi. Giữa hai người có một sự bất
hòa rất lớn; người chồng say sưa chè chén quá độ, đánh đập vợ con và có một
cách cư xử rất thô bỉ. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce không nói đến vấn
đề quả báo trong trường hợp này, nhưng không khuyên hai người ly dị. Ông nói:
- Giữa hai người đã xảy ra những xung đột và bất đồng ý kiến.
Hai người đừng tìm cách tránh xa nhau mà hãy có một thái độ thản nhiên, ôn hòa
với nhau. Đừng để ý quá nhiều đến những sự khinh rẻ hay trách móc, giận hờn; mà
hãy biết rằng thật ra bà chỉ đang gặt hái những
gì bà đã gieo. Vậy bà hãy cố gắng săn sóc giúp đỡ chồng trong mọi trường hợp và
làm cho người chồng tất cả những gì mà bà muốn rằng chồng bà sẽ làm cho bà...
Người ta có thể nghĩ rằng trong trường hợp này, sự gắn bó giữa
hai người có lẽ là một món nợ quả báo cần phải trả.
Vì không có đủ bằng chứng soi xét bằng thần nhãn về những sự
việc xảy ra trong các kiếp trước, người ta phải thừa nhận rằng thật không dễ gì
mà biết được những trường hợp nào là nên đoạn tuyệt và ly dị. Tuy nhiên, sự chấp
nhận những khó khăn, trắc trở trong đời sống vợ chồng với một tinh thần hy sinh
và chấp nhận những đắng cay, thử thách thường là cơ hội để tu dưỡng và phát triển
nhiều đức tính. Xét vì người bạn trăm năm đến với ta do những sợi dây nhân
duyên đã có từ trước, không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, nên dầu cho hôn nhân
có là một hoàn cảnh khó khăn trắc trở, ta vẫn nên xem đó như một cơ hội để tu
dưỡng bằng sự hy sinh quên mình và hành động vị tha. Từ nhận thức đó thì sự ly
dị dường như bao giờ cũng là một quyết định thiếu sót.
Trái lại nếu chúng ta cho rằng không ai có quyền cưỡng ép bất
cứ một người nào sống trong sự giam hãm trói buộc, là nguồn gốc của mọi sự xung
đột, bất hòa và trái hẳn với tâm tình tánh chất
của người ấy;, thì chúng ta sẽ tán thành sự ly dị như một biện pháp hợp lý và
lành mạnh, cũng như ta hủy bỏ một bản hợp đồng hay khế ước không có lợi chẳng hạn.
Trong cả hai trường hợp, mỗi bên đều có sự cực đoan của nó
và chắc chắn sẽ không thích hợp với một số trường hợp. Như thế, tốt nhất là
chúng ta nên trở về với sự quân bình, phán xét mọi việc một cách hoàn toàn
khách quan và tuân theo cái luật lệ vàng của con đường trung đạo.
Thắc mắc về vấn đề hôn nhân - Chương 15
CHƯƠNG 15
THẮC MẮC VỀ VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
Khi hai người đã quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo
nên một sự phối hợp và cùng chịu những tác động chung về mặt tâm lý. Những cuộc
soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa đến cho ta một số ý niệm tổng
quát về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong
quá khứ và tương lai.
Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi
vấn đề khác, mỗi người đều có quyền tự do ý chí trong việc chọn lựa bạn trăm
năm. Sự chọn lựa này chẳng khác nào như một người chọn tuyến xe buýt. Mặc dù
người ấy có toàn quyền quyết định trong việc chọn lên tuyến xe nào, nhưng một
khi đã chọn và bước lên xe, người ấy phải đi theo một lộ trình nhất định, một chiều hướng đã định sẵn, khác hẳn với lộ
trình và chiều hướng của những tuyến xe khác. Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện
nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của người ấy. Người tài xế
có thể là một người cộc cằn thô lỗ, không khí trong xe có thể quá nóng nực, những
cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói chuyện quá nhiều! Nói
chung, có những sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe này mà không xảy ra
trên một chiếc xe khác. Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến
đi đều tùy nơi chính bản thân ta, và dầu cho hoàn cảnh chung quanh có diễn ra
như thế nào, rốt cuộc chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về thái độ và cách xử
thế của mình.
Có nhiều trường hợp hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce
cho biết rằng do nghiệp quả gây nên. Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật
không có một bi kịch nào đau thương hơn nữa, và những ảnh hưởng của luật nhân
quả thật rất công bằng và vô cùng mầu nhiệm.
Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào
năm hai mươi ba tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa
xuống tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ như một nữ diễn
viên điện ảnh. Dầu cho vào năm bốn mươi tuổi là
lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn còn có một vẻ đẹp tuyệt trần
làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi khi nàng bước
vào chỗ đông người. Những bạn trai giàu có sang trọng có lẽ phải lấy làm ngạc
nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong mười tám năm kết tình chồng
vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có thanh thế và tiếng tăm, nàng đã trải
qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình ái. Chồng
nàng bị chứng bệnh bất lực. Người ta thấy ở đời cũng có những người đàn bà
không hề cảm thấy dục tình và không bao giờ ham muốn những sự luyến ái trong
khuê phòng; và đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng
không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ
kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là
một thảm trạng thật sự!
Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị và sẽ
chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện pháp dứt
khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ. Trong những
năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dan díu với những người đàn ông khác,
không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu về sinh lý
và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được
dục tình, một phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập tham thiền quán tưởng.
Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ mười tám năm nay,
trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước
kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng.
Trong bức thơ gởi cho ông Cayce, nàng kể chuyện như
sau:
“Khi chúng tôi gặp lại nhau, ngọn lửa tình lại nhen nhúm
mãnh liệt trong lòng anh ấy, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của
tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ
tôi sẽ không ngần ngại mà tư tình với anh ta nếu như anh ta không có gia đình.
Tôi không muốn bỏ chồng vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi
đã tiến bộ rất nhiều về sự cải hóa tánh tình... Có thể rằng những cảm tình của
tôi đối với người đàn ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt
của gia đình tôi gây nên. Dầu sao anh ta cũng là một người có tính nết khá tốt.
Anh ta yêu tôi từ thuở nhỏ, nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi
nói lại. Anh ta không tỏ tình với tôi vì tự thấy
còn chưa đủ sức lập gia đình. Nhưng về sau thì đã quá trễ, vì tôi đã đính hôn với
chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động của luật nhân quả,
dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng tôi. Thỉnh thoảng,
tôi đã cùng chung chăn gối với anh ta, một lẽ là vì anh ta quá yêu đương và có
thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy giúp anh ta
được thỏa mãn dục tình và thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương... Nhưng sau
cùng tôi đã đoạn tuyệt với anh ta vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ anh
ta và gây sự rối rắm trong gia đình họ. Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ
anh ta. Xã hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi thì không muốn
làm khổ một người nào. Anh ta cũng không có ác cảm với vợ, mặc dầu vợ anh ta
thường giày vò đay nghiến anh ta suốt nhiều tuần không dứt. Người vợ ấy có thể
sẽ làm to chuyện nếu biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi có biết việc
tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ của ông, nhưng ông ấy không hay biết chi cả về chuyện
này.”
Đó là bức thư của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc
trong cuộc đời của cô. Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp còn tiết
lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, đã tạo nên tình
trạng hiện nay, và cho ta thấy rằng tác động của luật nhân quả thật vô cùng
chính xác và mầu nhiệm.
Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc
Thánh chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne
Merceilieu, cũng là vợ của người chồng hiện nay. Ông Merceilieu, chồng
cô trong kiếp đó, là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh chiến
ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều
người khác có lòng tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn
cách biệt hẳn với những nguyên tắc đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo
quan niệm của ông, thì Thánh địa Jérusalem, nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng
Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của những người “ngoại đạo.”
Nhưng còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà Đấng Cứu Thế đã dạy đối với vợ ông, thì
dường như ông không bao giờ nghĩ đến!
Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh chiến
để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ “ngoại đạo”, thì đồng thời ông cũng muốn
bảo vệ một chuyện khác, đó là sự trinh tiết của vợ ông. E rằng lòng tín ngưỡng
tôn giáo của vợ ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một sự hy sinh
tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông, và thay vì tự an ủi bằng cách
nương mình theo cửa Đạo, bà ta lại tự an ủi bằng cách nương mình trong hai cánh
tay khỏe mạnh của một gã đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết
để làm cho một sự “an ủi” như thế không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ mười
hai ở Âu Châu có một dụng cụ rất hiệu quả để làm việc đó, gọi là cái đai trinh
tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm
1931, khi ở đây xảy ra hai vụ án về việc những người đàn bà bị chồng bắt buộc
đeo cái đai trinh tiết này. Đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc
phần dưới thân mình của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một
chìa khóa riêng, để cho người đàn bà không thể giao hợp với người đàn ông nào
khác.
Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho
vợ ông khỏi ngoại tình trong khi ông đi vắng. Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói
về vấn đề này như sau:
- Người này đã bị chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải mang một
dụng cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội.
Hai chữ “bắt buộc” hàm ý rằng bà Merceilieu không thỏa
thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó cho thấy rằng về sau bà ấy còn đau khổ
hơn nhiều và “quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện”.
Sự cưỡng ép phải giữ gìn trinh tiết làm cho bà ta có những
quyết định tai hại; và chính những quyết định này đã gây ra cho bà ta cái tình
trạng hiện nay theo sự tác động của luật nhân quả.
Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu những ảnh hưởng
công bằng của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước
đã dùng một dụng cụ để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục cho vợ, và phải
chịu quả báo bị bệnh bất lực trong kiếp này. Thật không có quả báo nào tương xứng
hơn nữa.
Nhưng mới nghe qua thì hình như có sự bất công khi một người
đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn như thế lại phải chịu thiệt thòi về phương diện
sinh lý đến hai lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người
gây ra không phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, mà còn do những
ý tưởng, âm mưu, ác ý và tâm trạng tiêu cực. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng
ép một cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kỵ và cách đối xử tàn
nhẫn đó là một lòng căm hờn và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù đó không biểu lộ ra ngoài bằng
cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước đây, chúng
ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại qua nhiều kiếp sống. Quyết định
trả thù sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ý định ấy.
Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu
kiều, và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ mình trong kiếp
trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng nàng phải phát
điên lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc
gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa? Còn cơ
hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn đích đáng? Nhưng điều
khác biệt lúc này là nàng đã có sự tiến bộ về phương diện đạo đức, tâm linh, và
không còn nuôi ác cảm đối với bất cứ một người nào nữa.
Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều biểu lộ một sự đa
cảm. Nàng có thể ngoại tình, dan díu với tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà
nàng có thể che giấu chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái
ý tưởng làm khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm
ấy. Bởi đó, nàng cố giữ mình. Về thể chất và tình cảm, nàng cần có sự thỏa mãn sinh lý nhưng vẫn yêu chồng và không
đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục tình, sắc đẹp và nhựa sống của thời
son trẻ để giữ một tấm lòng son sắt và trung thành.
Theo lời lẽ bí ẩn nhưng rất có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc
soi kiếp thì “nàng đã gặp lại chính mình”. Thật vậy, trong tình trạng hiện
tại, nàng đã gặp lại quyết định cũ thuở xưa của chính mình và đã chuộc lại lỗi
cũ. Nàng đã thành công trong sự thử thách tự đặt ra cho mình từ kiếp sống trước.
Kinh Thánh có nhắc lời Chúa như sau:
- Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ, vì mọi sự vay trả đều phải được thanh toán sòng phẳng.
Và:
- Tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong những món nợ
cũ!
Hai câu trong Kinh Thánh trên đây hàm ý rằng người ta có thể
tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải
băn khoăn về sự báo thù kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của mình.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xã hội không cần chống
lại những kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của
xã hội để duy trì nền an ninh công cộng và hạnh
phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng luật pháp một cách vô tư; và hành
động lên án đó không phải là một cử chỉ báo thù.
Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về
thảm kịch gia đình do việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng
nọ cũng vào thời kỳ Thánh chiến. Trong trường hợp này, luật nhân quả đã tác động
có hơi khác hơn một chút. Theo lời tường thuật của người vợ thì chồng nàng là một
người rất kiên nhẫn, hòa nhã và biết cảm thông. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống
gia đình, người đàn bà ấy vừa được ba mươi hai tuổi, vẫn luôn sợ hãi sự chung
chăn gối với chồng. Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm
cho tình trạng trở nên khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm
yêu trộm nhớ và say mê một chàng ca sĩ người Ý, bạn của gia đình nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với chồng
là do kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết trong
thời kỳ người chồng phải tùng chinh trong trận Thánh chiến. Quả báo của hành động
này là người đàn ông phải có một người vợ đáp ứng thấp về mặt tình dục và rất sợ
không muốn ngủ chung với ông ta!
Sự kiện người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm trong gia đình
gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo của cô ta. Đối
với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước thì phản ứng của nàng
là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp cho biết:
- Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do lòng thù
hận nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự
thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Cô phải biết tha thứ nếu cô muốn được tha
thứ. Sự say mê chàng ca sĩ có nguyên nhân là do một kinh nghiệm khác. Người ca
sĩ này đã là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Dương.
Đáp lại câu hỏi: “Bây giờ tôi phải làm gì?”, ông Cayce nói:
- Cô hãy làm những gì phù hợp với cái lý tưởng mà cô đã lựa
chọn.
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi trong một
trường hợp với nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến thì
câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lý thì trường
hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để
giúp ta nghiên cứu những mối tương quan của luật nhân quả, sự di truyền và ảnh
hưởng của hoàn cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, một người đàn bà đã viết thư cho ông Cayce như sau:
“Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử. Tôi
là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng đến
chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết sáu lần. Suốt
đời, tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự dau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy khi tôi có
chồng cách mười tám năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải ở xa người
chồng yêu quý của tôi, vì tôi không thể gần gũi được với anh ấy. Tôi đã cầu
nguyện; tôi đã áp dụng thử khoa tâm lý, khoa chữa bệnh thần kinh v.v... nhưng
không kết quả. Ông hãy xem tôi còn có hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi
vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây giờ thì tệ
hơn bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi sẵn sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn
trong tuần này, thì nghe nói về công việc của ông...
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này
ở hai kiếp về trước. Trong kiếp đó, nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê
thú vui vật chất dưới vương triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui tươi, nhưng nàng đã gieo hạt giống
cho tấn thảm kịch nối liền theo sau, cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu
tiên đến Bắc Mỹ, nàng sinh hạ được sáu đứa con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa
con ấy đều bị thiêu sống.
Cuộc soi kiếp nói tiếp:
- Người này đã sợ sệt không dứt suốt cuộc đời kể từ khi đó.
Nàng đã đánh mất hoàn toàn đức tin và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không che
chở cho nàng và cho các con. Bởi đó, trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi
hậu quả của sự sợ sệt đó.
Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ
có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ khi thất bại về vật chất người ta mới
thường quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải nhận
lãnh quả báo thì lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một người đàn bà
ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau khổ rất lớn.
Trong cơn đau khổ đó, thay vì nuôi dưỡng một tình thương nảy nở dồi dào, nàng
đã ôm lấy sự sợ hãi với tấm lòng đầy oán hận. Chính sự oán hận ấy đã tạo thành
quả báo ngày nay mà nàng phải nhận chịu.
Điều mà mỗi chúng ta cần nhận biết là, một tình thương chân
thật sẽ có năng lực xua đuổi sự sợ sệt.
Người phụ nữ này không hiểu được điều đó, không hiểu rằng
nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ đối với cuộc đời; phải tập mở rộng lòng
thương yêu người khác, trong đó có chồng nàng. Vì không nuôi dưỡng được tình
thương, nên nàng phải tiếp tục sống trong nỗi sợ hãi về sự đau đớn thể xác ám ảnh
và không thể làm vợ, làm mẹ như mong muốn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)