CHƯƠNG 15
THẮC MẮC VỀ VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
Khi hai người đã quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo
nên một sự phối hợp và cùng chịu những tác động chung về mặt tâm lý. Những cuộc
soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa đến cho ta một số ý niệm tổng
quát về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong
quá khứ và tương lai.
Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi
vấn đề khác, mỗi người đều có quyền tự do ý chí trong việc chọn lựa bạn trăm
năm. Sự chọn lựa này chẳng khác nào như một người chọn tuyến xe buýt. Mặc dù
người ấy có toàn quyền quyết định trong việc chọn lên tuyến xe nào, nhưng một
khi đã chọn và bước lên xe, người ấy phải đi theo một lộ trình nhất định, một chiều hướng đã định sẵn, khác hẳn với lộ
trình và chiều hướng của những tuyến xe khác. Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện
nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của người ấy. Người tài xế
có thể là một người cộc cằn thô lỗ, không khí trong xe có thể quá nóng nực, những
cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói chuyện quá nhiều! Nói
chung, có những sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe này mà không xảy ra
trên một chiếc xe khác. Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến
đi đều tùy nơi chính bản thân ta, và dầu cho hoàn cảnh chung quanh có diễn ra
như thế nào, rốt cuộc chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về thái độ và cách xử
thế của mình.
Có nhiều trường hợp hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce
cho biết rằng do nghiệp quả gây nên. Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật
không có một bi kịch nào đau thương hơn nữa, và những ảnh hưởng của luật nhân
quả thật rất công bằng và vô cùng mầu nhiệm.
Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào
năm hai mươi ba tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa
xuống tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ như một nữ diễn
viên điện ảnh. Dầu cho vào năm bốn mươi tuổi là
lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn còn có một vẻ đẹp tuyệt trần
làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi khi nàng bước
vào chỗ đông người. Những bạn trai giàu có sang trọng có lẽ phải lấy làm ngạc
nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong mười tám năm kết tình chồng
vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có thanh thế và tiếng tăm, nàng đã trải
qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình ái. Chồng
nàng bị chứng bệnh bất lực. Người ta thấy ở đời cũng có những người đàn bà
không hề cảm thấy dục tình và không bao giờ ham muốn những sự luyến ái trong
khuê phòng; và đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng
không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ
kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là
một thảm trạng thật sự!
Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị và sẽ
chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện pháp dứt
khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ. Trong những
năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dan díu với những người đàn ông khác,
không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu về sinh lý
và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được
dục tình, một phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập tham thiền quán tưởng.
Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ mười tám năm nay,
trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước
kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng.
Trong bức thơ gởi cho ông Cayce, nàng kể chuyện như
sau:
“Khi chúng tôi gặp lại nhau, ngọn lửa tình lại nhen nhúm
mãnh liệt trong lòng anh ấy, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của
tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ
tôi sẽ không ngần ngại mà tư tình với anh ta nếu như anh ta không có gia đình.
Tôi không muốn bỏ chồng vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi
đã tiến bộ rất nhiều về sự cải hóa tánh tình... Có thể rằng những cảm tình của
tôi đối với người đàn ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt
của gia đình tôi gây nên. Dầu sao anh ta cũng là một người có tính nết khá tốt.
Anh ta yêu tôi từ thuở nhỏ, nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi
nói lại. Anh ta không tỏ tình với tôi vì tự thấy
còn chưa đủ sức lập gia đình. Nhưng về sau thì đã quá trễ, vì tôi đã đính hôn với
chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động của luật nhân quả,
dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng tôi. Thỉnh thoảng,
tôi đã cùng chung chăn gối với anh ta, một lẽ là vì anh ta quá yêu đương và có
thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy giúp anh ta
được thỏa mãn dục tình và thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương... Nhưng sau
cùng tôi đã đoạn tuyệt với anh ta vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ anh
ta và gây sự rối rắm trong gia đình họ. Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ
anh ta. Xã hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi thì không muốn
làm khổ một người nào. Anh ta cũng không có ác cảm với vợ, mặc dầu vợ anh ta
thường giày vò đay nghiến anh ta suốt nhiều tuần không dứt. Người vợ ấy có thể
sẽ làm to chuyện nếu biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi có biết việc
tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ của ông, nhưng ông ấy không hay biết chi cả về chuyện
này.”
Đó là bức thư của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc
trong cuộc đời của cô. Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp còn tiết
lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, đã tạo nên tình
trạng hiện nay, và cho ta thấy rằng tác động của luật nhân quả thật vô cùng
chính xác và mầu nhiệm.
Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc
Thánh chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne
Merceilieu, cũng là vợ của người chồng hiện nay. Ông Merceilieu, chồng
cô trong kiếp đó, là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh chiến
ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều
người khác có lòng tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn
cách biệt hẳn với những nguyên tắc đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo
quan niệm của ông, thì Thánh địa Jérusalem, nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng
Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của những người “ngoại đạo.”
Nhưng còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà Đấng Cứu Thế đã dạy đối với vợ ông, thì
dường như ông không bao giờ nghĩ đến!
Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh chiến
để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ “ngoại đạo”, thì đồng thời ông cũng muốn
bảo vệ một chuyện khác, đó là sự trinh tiết của vợ ông. E rằng lòng tín ngưỡng
tôn giáo của vợ ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một sự hy sinh
tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông, và thay vì tự an ủi bằng cách
nương mình theo cửa Đạo, bà ta lại tự an ủi bằng cách nương mình trong hai cánh
tay khỏe mạnh của một gã đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết
để làm cho một sự “an ủi” như thế không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ mười
hai ở Âu Châu có một dụng cụ rất hiệu quả để làm việc đó, gọi là cái đai trinh
tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm
1931, khi ở đây xảy ra hai vụ án về việc những người đàn bà bị chồng bắt buộc
đeo cái đai trinh tiết này. Đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc
phần dưới thân mình của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một
chìa khóa riêng, để cho người đàn bà không thể giao hợp với người đàn ông nào
khác.
Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho
vợ ông khỏi ngoại tình trong khi ông đi vắng. Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói
về vấn đề này như sau:
- Người này đã bị chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải mang một
dụng cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội.
Hai chữ “bắt buộc” hàm ý rằng bà Merceilieu không thỏa
thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó cho thấy rằng về sau bà ấy còn đau khổ
hơn nhiều và “quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện”.
Sự cưỡng ép phải giữ gìn trinh tiết làm cho bà ta có những
quyết định tai hại; và chính những quyết định này đã gây ra cho bà ta cái tình
trạng hiện nay theo sự tác động của luật nhân quả.
Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu những ảnh hưởng
công bằng của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước
đã dùng một dụng cụ để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục cho vợ, và phải
chịu quả báo bị bệnh bất lực trong kiếp này. Thật không có quả báo nào tương xứng
hơn nữa.
Nhưng mới nghe qua thì hình như có sự bất công khi một người
đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn như thế lại phải chịu thiệt thòi về phương diện
sinh lý đến hai lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người
gây ra không phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, mà còn do những
ý tưởng, âm mưu, ác ý và tâm trạng tiêu cực. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng
ép một cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kỵ và cách đối xử tàn
nhẫn đó là một lòng căm hờn và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù đó không biểu lộ ra ngoài bằng
cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước đây, chúng
ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại qua nhiều kiếp sống. Quyết định
trả thù sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ý định ấy.
Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu
kiều, và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ mình trong kiếp
trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng nàng phải phát
điên lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc
gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa? Còn cơ
hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn đích đáng? Nhưng điều
khác biệt lúc này là nàng đã có sự tiến bộ về phương diện đạo đức, tâm linh, và
không còn nuôi ác cảm đối với bất cứ một người nào nữa.
Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều biểu lộ một sự đa
cảm. Nàng có thể ngoại tình, dan díu với tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà
nàng có thể che giấu chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái
ý tưởng làm khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm
ấy. Bởi đó, nàng cố giữ mình. Về thể chất và tình cảm, nàng cần có sự thỏa mãn sinh lý nhưng vẫn yêu chồng và không
đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục tình, sắc đẹp và nhựa sống của thời
son trẻ để giữ một tấm lòng son sắt và trung thành.
Theo lời lẽ bí ẩn nhưng rất có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc
soi kiếp thì “nàng đã gặp lại chính mình”. Thật vậy, trong tình trạng hiện
tại, nàng đã gặp lại quyết định cũ thuở xưa của chính mình và đã chuộc lại lỗi
cũ. Nàng đã thành công trong sự thử thách tự đặt ra cho mình từ kiếp sống trước.
Kinh Thánh có nhắc lời Chúa như sau:
- Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ, vì mọi sự vay trả đều phải được thanh toán sòng phẳng.
Và:
- Tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong những món nợ
cũ!
Hai câu trong Kinh Thánh trên đây hàm ý rằng người ta có thể
tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải
băn khoăn về sự báo thù kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của mình.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xã hội không cần chống
lại những kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của
xã hội để duy trì nền an ninh công cộng và hạnh
phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng luật pháp một cách vô tư; và hành
động lên án đó không phải là một cử chỉ báo thù.
Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về
thảm kịch gia đình do việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng
nọ cũng vào thời kỳ Thánh chiến. Trong trường hợp này, luật nhân quả đã tác động
có hơi khác hơn một chút. Theo lời tường thuật của người vợ thì chồng nàng là một
người rất kiên nhẫn, hòa nhã và biết cảm thông. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống
gia đình, người đàn bà ấy vừa được ba mươi hai tuổi, vẫn luôn sợ hãi sự chung
chăn gối với chồng. Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm
cho tình trạng trở nên khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm
yêu trộm nhớ và say mê một chàng ca sĩ người Ý, bạn của gia đình nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với chồng
là do kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết trong
thời kỳ người chồng phải tùng chinh trong trận Thánh chiến. Quả báo của hành động
này là người đàn ông phải có một người vợ đáp ứng thấp về mặt tình dục và rất sợ
không muốn ngủ chung với ông ta!
Sự kiện người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm trong gia đình
gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo của cô ta. Đối
với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước thì phản ứng của nàng
là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp cho biết:
- Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do lòng thù
hận nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự
thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Cô phải biết tha thứ nếu cô muốn được tha
thứ. Sự say mê chàng ca sĩ có nguyên nhân là do một kinh nghiệm khác. Người ca
sĩ này đã là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Dương.
Đáp lại câu hỏi: “Bây giờ tôi phải làm gì?”, ông Cayce nói:
- Cô hãy làm những gì phù hợp với cái lý tưởng mà cô đã lựa
chọn.
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi trong một
trường hợp với nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến thì
câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lý thì trường
hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để
giúp ta nghiên cứu những mối tương quan của luật nhân quả, sự di truyền và ảnh
hưởng của hoàn cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, một người đàn bà đã viết thư cho ông Cayce như sau:
“Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử. Tôi
là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng đến
chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết sáu lần. Suốt
đời, tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự dau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy khi tôi có
chồng cách mười tám năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải ở xa người
chồng yêu quý của tôi, vì tôi không thể gần gũi được với anh ấy. Tôi đã cầu
nguyện; tôi đã áp dụng thử khoa tâm lý, khoa chữa bệnh thần kinh v.v... nhưng
không kết quả. Ông hãy xem tôi còn có hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi
vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây giờ thì tệ
hơn bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi sẵn sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn
trong tuần này, thì nghe nói về công việc của ông...
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này
ở hai kiếp về trước. Trong kiếp đó, nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê
thú vui vật chất dưới vương triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui tươi, nhưng nàng đã gieo hạt giống
cho tấn thảm kịch nối liền theo sau, cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu
tiên đến Bắc Mỹ, nàng sinh hạ được sáu đứa con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa
con ấy đều bị thiêu sống.
Cuộc soi kiếp nói tiếp:
- Người này đã sợ sệt không dứt suốt cuộc đời kể từ khi đó.
Nàng đã đánh mất hoàn toàn đức tin và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không che
chở cho nàng và cho các con. Bởi đó, trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi
hậu quả của sự sợ sệt đó.
Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ
có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ khi thất bại về vật chất người ta mới
thường quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải nhận
lãnh quả báo thì lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một người đàn bà
ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau khổ rất lớn.
Trong cơn đau khổ đó, thay vì nuôi dưỡng một tình thương nảy nở dồi dào, nàng
đã ôm lấy sự sợ hãi với tấm lòng đầy oán hận. Chính sự oán hận ấy đã tạo thành
quả báo ngày nay mà nàng phải nhận chịu.
Điều mà mỗi chúng ta cần nhận biết là, một tình thương chân
thật sẽ có năng lực xua đuổi sự sợ sệt.
Người phụ nữ này không hiểu được điều đó, không hiểu rằng
nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ đối với cuộc đời; phải tập mở rộng lòng
thương yêu người khác, trong đó có chồng nàng. Vì không nuôi dưỡng được tình
thương, nên nàng phải tiếp tục sống trong nỗi sợ hãi về sự đau đớn thể xác ám ảnh
và không thể làm vợ, làm mẹ như mong muốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét